Bắt đầu từ năm Càn Long thứ 55 của nhà Thanh (1790), bốn đoàn kịch An Huy lớn là Tam Thanh, Tứ Hỷ, Xuân Đài và Hòa Xuân vốn biểu diễn ở miền Nam đã đến Bắc Kinh kết hợp với Hán Kịch đến từ Hồ Bắc để biểu diễn nhân ngày sinh nhật thứ 55 của vua Càn Long. Thông qua sự trao đổi liên tục và tiếp thu tinh hoa của các thể loại kịch khác, nó dần dần hội nhập và phát triển, cuối cùng đến thời vua Đạo Quang, Kinh kịch chính thức được hình thành. Kinh kịch là một loại hình kinh kịch mới, khác biệt với các loại kịch địa phương, khác về cách trình diễn, ngôn ngữ sân khấu và tiết mục. Sau khi hình thành, Kinh kịch bắt đầu phát triển nhanh chóng trong triều đình nhà Thanh cho đến khi Trung Hoa Dân Quốc đạt được sự thịnh vượng chưa từng có. Kể từ đó, trải qua hàng trăm năm phát triển, Kinh kịch vẫn giữ được sức sống nghệ thuật mãnh liệt.
Từ năm 1919 đến năm 1935, các buổi biểu diễn Kinh kịch ở nước ngoài của bậc thầy Kinh kịch Mai Lan Phương đã xóa bỏ thành kiến của phương Tây đối với kịch Trung Quốc và thậm chí cả người Trung Quốc vào thời điểm đó, thúc đẩy sự lan rộng của Kinh kịch Trung Quốc ra nước ngoài và tăng cường trao đổi văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Kinh kịch Trung Quốc, một kỳ quan của nghệ thuật phương Đông, đã gây được tiếng vang trên sân khấu kịch thế giới.
Trong quá trình phát triển, Kinh kịch đã hình thành một hệ thống động tác biểu diễn mang tính tượng trưng cao. Ví dụ như: Lấy một chiếc mái chèo biểu thị một con thuyền, một chiếc roi ngựa biểu thị một con ngựa, diễn viên không cần đạo cụ gì vẫn có thể biểu diễn những động tác như lên lầu, xuống lầu, mở cửa. Tuy những động tác này hơi khoa trương, nhưng có thể đem lại cảm giác chân thật cho khán giả.
Các nhân vật trong Kinh kịch chủ yếu chia thành bốn vai chính: Sinh, Đán, Tịnh, Sửu. “Sinh” chỉ vai nam, tùy theo tuổi tác và thân phận trong các vở kịch mà chia thành lão sinh, tiểu sinh và võ sinh. Trong đó, diễn viên nổi tiếng nhất bao gồm Mã Liên Lương, Chu Tín Phương, Diệp Thịnh Lan, Cái Khiếu Thiên, hình thức Lý Thiếu Xuân... “Đán” tức là các vai nữ, bao gồm thanh y, hoa đán, võ đán, lão đán. Trong đó, diễn viên vai đán nổi tiếng là Mai Lan Phương, Trình Nghiễn Thu, Thượng Tiểu Vân và Tuân Huệ Sinh, đây là bốn vai đán mới nổi trong những năm 20 thế kỷ XX. “Tịnh” tức là vai nam hào sảng, đặc trưng nổi bật là phải vẽ nhiều màu sắc trên mặt, vì vậy còn gọi là “hoa kiểm”, diễn viên nổi tiếng vai hoa kiểm có Cầu Thịnh Nhung, Viên Thế Hải... “Sửu” là vai nam xấu xa hoặc hài hước lanh lợi, diễn viên đóng vai Sửu nổi tiếng có Tiêu Trường Hoa, Mã Phúc Lộc...
Kinh kịch là loại hình nghệ thuật mang những nét gần gũi với cuộc sống. Chứa đựng những hàm ý thâm sâu, khiến người thưởng thức bị cuốn hút. Phần lớn các vở Kinh kịch đều có đời sống và cảm hứng từ các cốt truyện huyền thoại. Như cổ tích, truyền thuyết pha lẫn tính dã sử của tiểu thuyết Trung Quốc cổ điển. Vì vậy xem Kinh kịch cũng là một cách tìm hiểu về lịch sử cũng như văn hóa cổ xưa của đất nước Trung Hoa.
Nghệ thuật hóa trang trong Kinh kịch rất đặc sắc. Vai “Sinh” và “Đán” phải “vẽ lông mày”, “nâng lông mày” và “vẽ tròng mắt”, vai “Tịnh” và “Sửu” phải vẽ theo kiểm phổ (mặt nạ) của vở kịch, ví dụ như vai trung thành và dũng cảm phải vẽ màu đỏ, vai xảo trá phải vẽ màu trắng. Số màn trong Kinh kịch rất nhiều, nghe nói có tới 3.800 màn. Hiện nay các vở kịch được biểu diễn chủ yếu bao gồm 3 loại: Kịch truyền thống, kịch lịch sử được biên soạn mới và kịch hiện đại.
Vào ngày 16-11-2010, Kinh kịch đã được đưa vào "Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể truyền khẩu đại diện của nhân loại". Kinh kịch đã đi khắp thế giới và trở thành một phương tiện quan trọng để giới thiệu, truyền bá nghệ thuật và văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Nguồn: https://www.qdnd.vn/quoc-te/doi-song/kinh-kich-tinh-hoa-nghe-thuat-truyen-thong-trung-quoc-742115