IT Audit và khó khăn trong đào tạo nguồn nhân lực kiểm toán

2024/06/20

TintứcKiểmtoán

    Sự phát triển của cách mạng công nghệ lần thứ 4 đã tác động đến nhiều ngành nghề, trong đó có ngành Kiểm toán. Bài viết tổng quan về kiểm toán công nghệ thông tin (CNTT) sẽ đưa ra mô tả, tổng hợp và đánh giá những yêu cầu của công tác kiểm toán CNTT đến nguồn nhân lực trong lĩnh vực kế toán. Từ đó chỉ ra một số vấn đề đang tồn tại với công tác đào tạo nguồn nhân lực kiểm toán còn mới ở Việt Nam.

1. Vấn đề

    Sự phát triển như vũ bão của CNTT trong kỷ nguyên số cũng như trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 có tác động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực và các loại hình doanh nghiệp. CNTT trở thành một trong những yếu tố then chốt cho sự thành công của một tổ chức.
    Đối với ngành Kiểm toán, CNTT giúp cho việc phân tích thông tin, dữ liệu được nhanh chóng và chính xác hơn, tạo ra nguồn dữ liệu lớn phục vụ cho hoạt động kiểm toán, như: tập hợp được nhiều thông tin liên quan đến các đầu mối kiểm toán; phân tích, khảo sát, lập kế hoạch, lưu trữ hồ sơ kiểm toán trong cả quy trình kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định nội dung, phạm vi, trọng tâm và trọng yếu kiểm toán, nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán.

    Do vậy, bài viết tập trung mô tả, tổng hợp và đánh giá những yêu cầu của công tác kiểm toán CNTT đến nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán.
    Nội dung chính tập trung vào 2 điểm, gồm:
    • Kiểm toán công nghệ thông tin;
    • Một số vấn đề đặt ra đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán.

2. Kiểm toán công nghệ thông tin

    Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của CNTT đã tác động sâu sắc đến mọi doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực khác nhau. Trong hoạt động của doanh nghiệp, việc sử dụng CNTT trong ghi chép, xử lý các giao dịch góp phần đáng kể giúp nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Thực tế trong suốt 20 năm qua, sự phát triển của CNTT cũng như cuộc cách mạng về kỷ nguyên số đã tạo ra sự thay đổi trong môi trường kiểm soát và cách thức thực hiện các hoạt động kiểm soát trong doanh nghiệp, thậm chí làm thay đổi cả quy trình ra quyết định của các nhà quản lý. Trong môi trường hoạt động có sử dụng CNTT và ngày càng phụ thuộc vào CNTT, các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của việc duy trì và phát triển hệ thống CNTT sao cho đảm bảo sự an toàn, bảo mật và hiệu quả. Việc đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống CNTT ngày càng cần thiết và đóng góp vào sự thành công trong cả ngắn và dài hạn của doanh nghiệp. Kiểm toán CNTT trở thành một chức năng tư vấn, là cánh tay phải để giúp doanh nghiệp quản trị CNTT (Radonovic và cộng sự, 2010).
    Kiểm toán CNTT được hiểu là việc kiểm tra và đánh giá hệ thống CNTT, cơ sở hạ tầng, các chính sách và hoạt động của hệ thống CNTT. Trong quy trình kiểm toán CNTT, người KTV sẽ thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán để xác định hệ thống CNTT của doanh nghiệp có thực hiện bảo vệ tài sản, duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu và hỗ trợ đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp, cũng như sử dụng các nguồn lực một cách hiệu lực và hiệu quả (Veerankutty, 2010).
    Trong vai trò của người làm công tác kiểm toán CNTT, người KTV sẽ kiểm tra và đánh giá tất cả các khía cạnh của hệ thống CNTT bao gồm các mạng kết nối, các ứng dụng, hệ thống an ninh, hệ thống truyền thông cũng như các hệ thống cấu thành nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác của đơn vị. Về phạm vi, một cuộc kiểm toán CNTT có thể bao gồm kiểm toán hệ thống CNTT, kiểm toán dự án CNTT và kiểm toán trong môi trường CNTT. Kiểm toán CNTT có thể được vận dụng trong việc thực hiện kiểm toán BCTC, kiểm toán hoạt động hoặc kiểm toán tuân thủ, được thực hiện bởi các KTV độc lập, KTV nội bộ hay KTV nhà nước.
    Trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, các công ty kiểm toán độc lập có thể sử dụng CNTT trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán với rất nhiều công việc liên quan như lập kế hoạch kiểm toán, lưu trữ hồ sơ kiểm toán, thực hiện các thủ tục kiểm toán và quản lý chất lượng kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần đánh giá mức độ sử dụng CNTT của đơn vị trong xử lý các giao dịch và tạo lập thông tin tài chính, đánh giá tính hữu hiệu của các quy trình CNTT và kiểm soát nội bộ có liên quan. Từ đó, KTV có thể xác định được các rủi ro chính trong hệ thống CNTT của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, KTV có thể thực hiện các thủ tục kiểm toán tập trung vào các vùng rủi ro cao có thể dẫn đến sai sót trọng yếu trên BCTC. KTV cũng có thể sử dụng các phần mềm kiểm toán trong việc chọn mẫu, kiểm tra dữ liệu, thực hiện thủ tục phân tích và các kiểm tra chi tiết. Đặc biệt, KTV có thể sử dụng kỹ thuật phân tích dữ liệu để đánh giá và phát hiện gian lận.
    Trong lĩnh vực kiểm toán hoạt động, kiểm toán CNTT có thể được xem là một phần cấu thành trong đối tượng kiểm toán (các quy trình, hoạt động của tổ chức) hoặc bản thân hệ thống CNTT trở thành đối tượng chính của cuộc kiểm toán. Các vấn đề mà một cuộc kiểm toán hoạt động CNTT thường đánh giá bao gồm; an ninh mạng; việc vận hành hệ thống CNTT; công tác quản trị và bảo vệ dữ liệu; quản trị đám mây; tích hợp khung quản trị công nghệ thông tin trong doanh nghiệp.
(Quy trình kiểm toán công nghệ thông tin)
    • Mục đích của kiểm toán CNTT: Kiểm toán CNTT giúp các doanh nghiệp giám sát độ chính xác, hiệu quả của các hệ thống CNTT và các quy trình có liên quan; đảm bảo an toàn bảo mật và tuân thủ các quy định về an toàn bảo mật CNTT của Nhà nước. Các doanh nghiệp ứng dụng CNTT trong hoạt động sản xuất - kinh doanh được kiểm toán CNTT định kỳ sẽ nâng cao được uy tín, gia tăng niềm tin đối với khách hàng, nhà đầu tư và đối tác.
    • Các yêu cầu đối với nghề Kiểm toán CNTT: Đây là một nghề cần sự kết hợp giữa kiến thức giữa CNTT và hoạt động doanh nghiệp. Do đó, công việc của một KTV CNTT phù hợp cho các kiểm toán nắm rõ quy trình nghiệp vụ, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cách thức CNTT áp dụng vào hoạt động kinh doanh, phân tích rủi ro CNTT và rủi ro kinh doanh,… Khả năng ngoại ngữ (tiếng Anh) và kĩ năng giao tiếp cũng là yếu cầu quan trọng bởi công việc của KTV sẽ bao gồm nhiều buổi trao đổi với các phòng ban, đơn vị hoặc khách hàng có tính chất khác nhau.

3. Thực tế và những vấn đề đặt ra đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán

    Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đều sử dụng CNTT và đang dần thực hiện chuyển đổi số nên cũng đặt ra yêu cầu về CNTT nhất định cho người làm công tác kiểm toán. KTV hiện nay và trong tương lai đòi hỏi không chỉ có kiến thức về kiểm toán CNTT mà còn phải có khả năng sử dụng thành thạo các kỹ thuật và công cụ CNTT trong quy trình kiểm toán để có thể thực hiện cuộc kiểm toán nhanh chóng và chính xác (Hass và cộng sự, 2006). Kiểm toán viên cũng cần có các kinh nghiệm để mở rộng quy trình kiểm toán trên không gian kỹ thuật số.
    Thực tế tại Việt Nam, chương trình đào tạo ở bậc đại học ngành Kế toán - Kiểm toán ở đa số các trường chưa thật sự chú trọng đến việc trang bị cho sinh viên về kiến thức và kỹ thuật kiểm toán CNTT.
Bảng liệt kê các học phần về kiểm toán trong chương trình đào tạo
ngành Kế toán - Kiểm toán tại một số trường đại học lớn ở Việt Nam
    Dữ liệu tại bảng trên cho thấy, các môn học liên quan tới kiểm toán CNTT hoặc ứng dụng CNTT vào kiểm toán hầu như không có hoặc khá hiếm. Trong chương trình thi lấy chứng chỉ KTV (CPA Việt Nam), nội dung các môn thi cũng chưa thể hiện có chú trọng đến nội dung kiểm toán CNTT. Việc đào tạo kỹ năng kiểm toán CNTT hiện nay chủ yếu ở các doanh nghiệp kiểm toán lớn như Big 4 thông qua hướng dẫn sử dụng các phần mềm kiểm toán hay hệ thống chia sẻ dữ liệu.
    Trong khi đó, thực tế hiện nay tại nhiều quốc gia, KTV mới vào nghề thường sẽ được đào tạo về CNTT trong một khoảng thời gian hợp lý, định kỳ phải tham gia các lớp cập nhật chuyên sâu về CNTT. Thậm chí đối với một số đơn vị kiểm toán nhà nước, KTV chỉ được xếp nâng hạng khi tham dự đủ các khóa đào tạo chuyên sâu về CNTT. Điều này cho thấy việc đào tạo nguồn lực KTV có đủ các kiến thức và kỹ năng về kiểm toán CNTT là vô cùng cần thiết để đáp ứng yêu cầu công việc.
    Do đó, việc đào tạo nguồn lực KTV có đủ các kiến thức và kỹ năng về kiểm toán CNTT là vô cùng cần thiết trong điều kiện hiện nay. Các chương trình đào tạo ngành Kế toán - Kiểm toán nói chung và ở bậc đại học nói riêng cần có sự thay đổi nhằm hướng đến việc trang bị cho người học những kỹ năng và kiến thức cần thiết về kiểm toán CNTT.

4. Những vấn đề đặt ra đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán công nghệ thông tin

    Có thể thấy, đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán CNTT vẫn đang còn nhiều hạn chế, cần được thay đổi và hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng và đào tạo ra đội ngũ KTV CNTT lành nghề, cụ thể:
    • Thứ nhất, chương trình đào tạo ngành Kế toán - Kiểm toán ở bậc đại học cần được rà soát, bổ sung các môn học về kiểm toán CNTT. Các môn học này sẽ xây dựng chuẩn đầu ra dựa trên mục tiêu trang bị các kỹ năng và kiến thức cần thiết mà một KTV cần có, bao gồm:
      • Khả năng nắm bắt các quy trình kinh doanh chính của doanh nghiệp;
      • Khả năng nắm bắt các quy trình CNTT chủ yếu (nhằm giúp KTV xác định các rủi ro CNTT ưu tiên);
      • Khả năng phân tích và suy luận logic (giúp kiểm toán viên sử dụng việc phân tích dữ liệu và các công cụ mô hình hóa);
      • Có kiến thức và hiểu biết về an toàn dữ liệu và quy trình kiểm toán CNTT;
      • Kỹ năng giao tiếp: để giải thích các vấn đề về chuyên môn phức tạp cho các đối tượng không phải chuyên ngành;
      • Các kỹ năng khác: giải quyết vấn đề phức tạp, tư duy phản biện, khả năng sáng tạo, linh hoạt trong tư duy.
    • Thứ hai, về nội dung giảng dạy trong các môn học kiểm toán cũng cần được đổi mới. Chẳng hạn như trong nội dung đào tạo kiểm toán báo cáo tài chính, cần bổ sung các nội dung về CAATs theo hướng nâng cao việc sử dụng các công cụ CNTT. Nhìn chung, nội dung các môn học kiểm toán (bao gồm kiểm toán CNTT) cần được thiết kế cho người học đảm bảo ít nhất các vấn đề sau:
      • Lập kế hoạch và thiết kế các thủ tục kiểm toán dự kiến;
      • Xác định mục tiêu và phạm vi của cuộc kiểm toán;
      • Phối hợp và triển khai các thủ tục kiểm toán;
      • Xây dựng/tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán/quy định của đơn vị;
      • Lập báo cáo kiểm toán;
      • Vận dụng các thông lệ tốt trong ngành để đáp ứng các yêu cầu kiểm toán;
      • Lập và cập nhật hồ sơ kiểm toán CNTT;
      • Trao đổi/thông báo kết quả kiểm toán và các kiến nghị kiểm toán với đơn vị;
      • Đảm bảo các kiến nghị kiểm toán được thực hiện đúng.
    • Thứ ba, các trường đại học cần chú trọng đầu tư công nghệ thực hành để giúp sinh viên có kỹ năng cần thiết về CNTT cũng như kỹ thuật số. Điều này được thực hiện thông qua nhiều hình thức, như liên kết với một số đơn vị cung cấp dịch vụ CNTT/kiểm toán CNTT để sinh viên có điều kiện tiếp cận thực tế ngay từ khi còn đang học đại học.
    • Thứ tư, trong điều kiện toàn cầu hóa, nhằm giúp sinh viên có thêm các bằng cấp, chứng chỉ quốc tế, thì chương trình đào tạo các môn học kiểm toán nên tham khảo/vận dụng các nội dung đào tạo cần thiết để sinh viên có thể thi lấy các chứng chỉ quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán CNTT như CISA (Certified Information Systems Auditor) hay CSIM (Certified Information Security Manager).


    • Thứ năm, trong các chương trình thi lấy chứng chỉ hành nghề kiểm toán cũng như nội dung cập nhật kiến thức kiểm toán hàng năm cho các KTV cần đưa nội dung kiểm toán CNTT như một nội dung bắt buộc. Đây là giải pháp thiết thực nhằm tạo điều kiện cho lực lượng KTV trang bị đủ kiến thức kiểm toán công nghệ thông tin cần thiết đáp ứng cho yêu cầu thực tiễn công việc.

5. Kết luận

    Kiểm toán CNTT tuy không phải là lĩnh vực mới, nhưng tại Việt Nam, lĩnh vực này chưa thực sự có nhiều chuyên gia/đơn vị có kinh nghiệm. Chính vì vậy, công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán cần có sự thay đổi nhằm đào tạo ra một lực lượng nhân sự kiểm toán có trình độ, có hiểu biết để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước.
Nguồn: https://tapchicongthuong.vn/kiem-toan-cong-nghe-thong-tin-va-mot-so-van-de-dat-ra-doi-voi-cong-tac-dao-tao-nguon-nhan-luc-kiem-toan-85925.htm

Liên hệ dịch vụ
Công ty Dịch vụ kế toán Nhật Bản. Cung cấp Dịch vụ tư vấn đầu tư, Kế toán - Thuế, Kiểm toán. Nếu bạn có bất kì yêu cầu nào, vui lòng liên hệ với chúng tôi. Công ty chúng tôi luôn tìm kiếm cơ hội được làm việc với công ty bạn.
 


Tìm kiếm Blog này

AGS Accounting会社紹介(JP)

Translate

Lưu trữ Blog

QooQ