Kiểm toán nội bộ đã ra đời từ lâu trên thế giới nhưng chỉ phát triển từ sau
các vụ gian lận tài chính ở Công ty Worldcom và Enron (Mỹ) những năm 2000-2001
và đặc biệt là khi Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này quy
định các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu
quả của hệ thống kiểm soát nội bộ công ty.
Trong khi hoạt động của kiểm toán độc lập giới hạn ở việc kiểm tra báo cáo tài
chính (mức độ trung thực và hợp lý), hoạt động của kiểm toán nội bộ không bị
giới hạn ở bất kỳ phạm vi nào trong công ty, từ mua hàng, sản xuất, bán hàng
đến quản lý tài chính, nhân sự hay công nghệ thông tin. Mục đích của kiểm toán
nội bộ là phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp, chứ không phải cho đối
tác bên ngoài. Kiểm toán nội bộ không chỉ đánh giá các yếu kém của hệ thống
quản lý mà còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty.
Lợi ích của kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ có thể đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Đây là
công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của
doanh nghiệp. Thông qua công cụ này, Ban Giám đốc và Hội đồng quản trị có thể
kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn, tăng khả năng đạt được
các mục tiêu kinh doanh. Một doanh nghiệp có kiểm toán nội bộ sẽ làm gia tăng
niềm tin của các cổ đông, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán về hệ
thống quản trị ở đây. Các thống kê trên thế giới cho thấy các công ty có phòng
kiểm toán nội bộ thường có báo cáo đúng hạn, báo cáo tài chính có mức độ minh
bạch và chính xác cao, khả năng gian lận thấp và cuối cùng là hiệu quả sản
xuất kinh doanh cao hơn so với các công ty không có phòng kiểm toán nội bộ.
Tuy nhiên, có một thực tế là không phải doanh nghiệp nào cũng thấy hết các lợi
ích trên và có biện pháp để hiện thực hóa các lợi ích đó. Nhiều doanh nghiệp
theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã không cân bằng được ba mục tiêu bắt
buộc của phát triển bền vững. Đó là tăng trưởng, hiệu quả và kiểm soát. Kết
quả là tam giác ba mục tiêu này không thực sự mở rộng ở cả ba góc trong quá
trình tăng trưởng một cách đồng bộ. Thay vào đó là bị co méo ở hai góc kia,
tăng trưởng tuy có đạt, nhưng hiệu quả và kiểm soát lại giảm sút hoặc không
ngang tầm với sự tăng trưởng.
Để phát triển bền vững, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải cân bằng cả ba mục
tiêu trên. Đây là bài toán thực sự của quản trị. Doanh nghiệp nào xem nhẹ một
trong ba mục tiêu trên thì sớm muộn cũng phải trả giá.
Thực tế kiểm toán nội bộ ở Việt Nam
Hiện nay khung pháp lý cao nhất cho hoạt động kiểm toán nội bộ là Luật Doanh
nghiệp (cũ và mới). Khái niệm đầu tiên liên quan đến kiểm toán nội bộ quy định
trong Luật là Ban Kiểm soát do cổ đông bầu ra. Tuy nhiên, vai trò, chức năng,
trách nhiệm của Ban Kiểm soát còn quá mơ hồ, làm công việc của thanh tra mang
tính chất đột xuất, theo yêu cầu hơn là thường xuyên.
Các doanh nghiệp nhà nước có thêm một quy định, hướng dẫn về vấn đề kiểm toán
nội bộ (Quyết định số 832/TC/QĐ - CĐKT năm 1997). Theo đó, Phòng Kiểm
toán nội bộ vẫn báo cáo lên Tổng giám đốc như một bộ phận thuộc sự điều hành
của Tổng giám đốc. Điều này làm giảm tính độc lập của Phòng Kiểm toán nội bộ,
vì toàn bộ hệ thống quản lý trong doanh nghiệp (do Ban Giám đốc quy định) đều
là đối tượng đánh giá của kiểm toán nội bộ. Trong khi đó, theo thông lệ phổ
biến trên thế giới, Phòng Kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp
lên cho Ban Kiểm soát hoặc Hội đồng quản trị, tức là cấp cao hơn Ban Giám đốc.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, Ban Kiểm soát ở các doanh nghiệp nhà nước và
một số ngân hàng đã hoạt động nhưng chưa mang lại hiệu quả do vai trò, chức
năng, trách nhiệm chưa rõ ràng và còn thiếu công cụ để thực hiện công tác giám
sát.
Ở các loại hình công ty khác, hoạt động kiểm toán nội bộ ít nhiều đã hình
thành khi các công ty thực hiện hệ thống quản lý chất lượng hay môi trường
(ISO). Các công ty có được chứng chỉ ISO bắt buộc phải thực hiện đánh giá nội
bộ (thực chất là kiểm toán nội bộ) ít nhất mỗi năm một lần về mức độ tuân thủ
các tiêu chuẩn ISO. Việc đánh giá này thường do một ban hay một bộ phận -
thường gọi là ban ISO hay ban bảo đảm chất lượng - thực hiện và báo cáo lên
tổng giám đốc. Tuy nhiên, do đánh giá nội bộ chỉ giới hạn ở việc tuân thủ các
tiêu chuẩn của ISO (chủ yếu về mặt thủ tục, văn bản), nên hầu như không giúp
cải tiến nhiều về hệ thống kiểm soát ở công ty. Trong thực tế, nhiều doanh
nghiệp thực hiện ISO đã nhận ra điều này và đã thiết lập bộ phận đánh giá nội
bộ ở cấp độ cao hơn, đầy đủ hơn và thực chất hơn.
Ở Việt Nam, việc xây dựng kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp chắc chắn sẽ
phát triển trong thời gian tới cùng với sức phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam. Sự đòi hỏi của các nhà đầu tư về một hệ thống quản trị chuyên
nghiệp sẽ buộc các doanh nghiệp phải chú ý xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ
sao cho thật hiệu quả.
Xu hướng thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ cũng sẽ phát triển trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các doanh
nghiệp này đang ngày càng có đóng góp cao về doanh thu, lợi nhuận đối với công
ty mẹ ở nước ngoài. Và rất nhiều công ty mẹ đó đang niêm yết trên thị trường
chứng khoán Mỹ hay ở các thị trường chứng khoán lớn khác trên thế giới. Do đó,
dần dần, các công ty nước ngoài ở Việt Nam cũng buộc phải tuân thủ những quy
định như Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ, tức là phải thực hiện kiểm toán nội bộ.
Các công ty này sẽ ngày càng nhận được nhiều chương trình kiểm toán nội bộ do
công ty mẹ thực hiện hoặc sẽ phải xây dựng bộ phận kiểm toán độc lập của riêng
mình.
Làm sao xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ?
Việc xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp phải được thực hiện
qua nhiều bước. Trước hết, doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu cụ thể và
mục đích cụ thể của bộ phận này. Kế đó là phải xác định rõ ràng cơ cấu tổ
chức, vai trò, chức năng và quyền hạn của bộ phận kiểm toán nội bộ, có thể bao
gồm cả một văn kiện như điều lệ kiểm toán để bảo đảm đủ tính độc lập cho bộ
phận kiểm toán nội bộ hoạt động. Việc tiếp theo quan trọng không kém là tuyển
dụng kiểm toán viên trưởng, kiểm toán viên và đào tạo họ. Một điều cần lưu ý
là nghiệp vụ kiểm toán nội bộ khác nhiều kiểm toán độc lập và đòi hỏi trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm rất cao. Sau cùng, bộ phận kiểm toán nội bộ cần thực
hiện kiểm toán thí điểm và tốt nhất là có sự đánh giá của một công ty tư vấn
độc lập, để rút kinh nghiệm trước khi bắt đầu xây dựng chiến lược và kế hoạch
kiểm toán dài hạn.
Kiểm toán nội bộ là hoạt động đánh giá và tư vấn nội bộ trong doanh nghiệp, có
tính chất độc lập và khách quan, nhằm đem lại giá trị và cải tiến công tác
quản lý ở doanh nghiệp thông qua việc tăng cường kiểm soát nội bộ và quản lý
rủi ro.
Nguồn:https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-ttpltc dDocName=MOFUCM090256