Áo Tế giao thời nhà Nguyễn

2025/03/04

ViệtNam-Lịchsử

Công ty TNHH Kế toán - Kiểm toán AGS nằm trong hàng đầu những đơn vị chuyên cung cấp các dịch vụ Kế toán, Kiểm toán, và tư vấn thuế tài chính. Cùng với chất lượng dịch vụ tốt và uy tín, Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong ngành nghề, để phục vụ công việc thì các kiến thức liên quan đến ngành nghề là điều vô cùng cần thiết cho mỗi cá nhân trong tập thể. Hôm nay Công ty AGS sẽ cùng các bạn quay về quá khứ lịch sử Việt Nam để tìm hiểu một trong các bảo vật lịch sử nổi tiếng và có sự ảnh hưởng lớn đến nét văn hóa của dân tộc Việt Nam, đó chính là Áo Tế giao thời nhà Nguyễn thông qua món bảo vật quốc gia này chúng ta sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc, những dấu mốc thăng trầm của tổ quốc từ đó khẳng định lãnh thổ chủ quyền đất nước đến bạn bè thế giới. Khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc trong mỗi con người Việt Nam, vậy hãy cùng AGS đi tìm hiểu về bảo vật này và giai thoại liên quan để chúng ta có những cái nhìn sâu sắc hơn bạn nhé.

Đức Từ Cung, hoàng thái hậu cuối cùng của triều Nguyễn, trước khi mất đã để lại bảo vật là chiếc áo tế Giao vốn được vua Nguyễn mặc trong lễ tế ngày đầu xuân cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.
Đức Từ Cung (vợ vua Khải Định, mẹ vua Bảo Đại) qua đời năm 1980. Trước lúc nhắm mắt, bà hiến tặng cho Nhà nước nhiều bộ trang phục hoàng gia. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế là đơn vị tiếp nhận. Những người làm công tác nghiên cứu như "được vàng" khi biết trong số hiện vật này có chiếc áo các vua Nguyễn mặc trong quốc lễ tế Giao.
Tế Giao là lễ tế trời đất và các vị thần linh quan trọng nhất trong bờ cõi quốc gia. Chỉ vua mới có quyền làm lễ tế Giao, nhằm khẳng định tính chính thống của triều đại cũng như uy quyền của hoàng đế tuân theo mệnh trời để cai trị dân chúng. Nghi lễ này có từ thời nhà Lý và các triều đại phong kiến tiếp theo bảo tồn, nhưng chỉ còn triều Nguyễn để lại áo tế Giao.


"Chiếc áo không chỉ là trang phục mà còn là biểu trưng cho quyền lực của thiên tử. Người được trời đất chứng giám mới có đủ năng lực để nối kết trời với đất, thay mặt thần dân cúng tế trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an", bà Huỳnh Thị Anh Vân, Giám đốc Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, phân tích.
Áo tế Giao được truyền qua các đời vua Nguyễn và là một trong số ít hiện vật độc bản của triều Nguyễn, vừa được Thủ tướng công nhận bảo vật quốc gia. "Chiến tranh loạn lạc, bà Từ Cung đã phải bán đi nhiều trang phục, trang sức của hoàng tộc để sinh sống và tu sửa những đền thờ miếu mạo của nhà Nguyễn, nhưng vẫn quyết giữ lại áo tế Giao, đủ biết chiếc áo quan trọng và quý giá đến mức nào", bà Anh Vân nói.
Áo màu xanh đen, dài 117 cm, tà áo rộng 98 cm, hai cánh tay và vạt trước được thêu hình rồng 5 móng tinh xảo. Thân áo thêu mặt trời, mặt trăng, các vì sao tinh tú, mây, núi, sóng nước... Nhiều người lấy làm lạ vì truyền qua 13 vua nhà Nguyễn, áo vẫn còn mới? Bà Anh Vân lý giải: "Lễ tế Nam Giao thuộc hàng đại tự, mỗi năm vua chỉ mặc một lần và là áo khoác ngoài nên còn nguyên vẹn".


Để chuẩn bị tế Giao người chủ tế phải thực hành nhiều nghi lễ, trong đó phải ăn chay nằm đất 3 ngày. Lễ được tổ chức tại điện Thái Hòa, sau đó, ngự đạo sẽ rước nhà vua đi qua Ngọ Môn, qua cửa Quảng Đức đến trước bến Phu Văn Lâu và lên thuyền để lên đàn tế phía Nam Kinh thành.
Đàn tế được vua Gia Long dựng vào năm 1806, gồm 3 tầng. Tầng trên hình tròn tượng trưng cho trời, hai tầng dưới hình vuông tượng trưng cho đất và con người. Bao quanh đàn tế là rừng thông xanh ngắt.
Từ khi đàn tế được xây dựng cho đến cuối thế kỷ 19, hàng năm triều Nguyễn đều tổ chức lễ tế Nam Giao vào mùa xuân. Đến thời vua Thành Thái (1889) và các đời vua sau này, do điều kiện kinh phí hạn hẹp nên 3 năm triều đình mới tổ chức một lần. Trong lễ tế Nam Giao, có thể đích thân nhà vua đứng chủ tế hoặc giao cho quan khâm mệnh đại thần thay mặt làm chủ tế.
"Thời Pháp thuộc, lễ tế này chủ yếu mang tính hình thức, vì vai trò nhà vua không còn thiêng liêng như ngày trước", bà Anh Vân thông tin.


Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, đàn Nam Giao bị bỏ hoang phế. Ngày nay, đàn Nam Giao đã được phục hồi và tổ chức UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Thế giới từ năm 1993. Riêng chiếc áo tế Giao hiện bảo quản tại Bảo tàng cổ vật Cung đình Huế theo chế độ đặc biệt.
Sau gần 60 năm vắng bóng, năm 2004, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế lần đầu tiên tái hiện từng phần lễ tế Nam Giao trong kỳ Festival. Về sau, đại lễ này dần được phục dựng gần như hoàn chỉnh. Nhưng khi đó thay mặt "vua" tế trời đất là một diễn viên nam.

Tế Giao và áo tế của vua thời Nguyễn

Sử sách ghi lại, Việt Nam lập Đàn Nam Giao từ thời nhà Lý (đời vua Lý Anh Tông, 1138-1175), ở địa phận huyện Thọ Xương, phía Nam thành Thăng Long, cứ ba năm làm một đại lễ tế Giao. Vua đi tế ngự xe Thái Bình, khắc gỗ làm hình 40 vị tiên mặc áo gấm vóc ngũ sắc, cầm cờ; có khi vua ngự thuyền rồng ở hồ Chu Tước thuộc phường Bích Câu, dùng dây gấm kéo thuyền. Hai năm làm trung lễ, vua đi tế ngồi ngai lớn chạm trổ bách cầm. Một năm là tiểu lễ, vua đi tế ngồi ngai nhỏ, các quan văn võ theo sau.
Thời Hồ Hán Thương năm 1402 cũng theo lệ cũ của nhà Lý cho cử hành lễ tế Giao rất long trọng. Vua đắp đàn ở Đốn Sơn, chọn ngày lành, đi xe vân long, ra cửa Nam thành, trăm quan và các cung tần, mệnh phụ theo thứ tự đi sau. Việc cho phép phụ nữ được đi theo xa giá của vua trong lễ tế Giao là điểm đổi mới đáng ghi nhận của triều đại Hồ Hán Thương nhưng lại bị các nhà làm sử phong kiến đời sau coi là “học mót cặn bã trong lễ, không kê cứu gì cả, rất là quê mùa”. Hồ Hán Thương quy định mũ áo đàn bà đi trong đoàn phải kém mũ áo của chồng một bậc, nhưng lại có thêm một điểm cách tân tột bực nữa là “người đàn bà nào chính bản thân làm nên sang hiển thì mũ áo không phải kém mũ áo của chồng”. Nhà Hồ cũng chia lễ ra làm 3 hạng: lễ lớn, lễ trung bình và lễ nhỏ. Lễ lớn cử hành 3 năm một lần, lễ trung bình hai năm một lần, lễ nhỏ được tổ chức hàng năm. Đến năm 1462, lại quy định cứ đến đầu mùa xuân hàng năm là làm lễ tế Giao.
Thời Nguyễn, nghi lễ tế Giao là nghi lễ trọng thể nhất trong mọi hoạt động nghi lễ của triều đình. Mọi chi tết liên quan đến các bước thực hành nghi lễ, trang phục, thành phần tham dự, thời gian, tế phẩm đều được điển chế hoá thành các quy định cụ thể và đều có những thay đổi qua các đời vua Nguyễn.
Thời đầu triều, vua Gia Long quy định tổ chức tế hàng năm vào mùa xuân (tháng 2 ÂL). Đến thời Thành Thái năm thứ 2 (1900) định lại cứ ba năm tế một lần, lấy năm Thành Thái thứ 3 (1901) làm kỳ đầu tiên.


ĐànNamGiao thời Nguyễn được lập năm Gia Long thứ 2 (1806), ở địa phận xã Dương Xuân, phíaNamkinh thành Huế. Đàn chia làm ba tầng:
Tầng thứ nhất: hình tròn, quy định để thờ Trời và Đất, phối thờ các vua Nguyễn.
Tầng thứ hai: hình vuông, thờ các vị thần: Mặt trời, Mặt trăng, Tinh tú, thần Gió, Mưa, Mây, Sấm, sao Thái Tuế, thần Nguyệt tướng (chỉ lúc mặt trời, mặt trăng họp nhau, có 12 vị - ĐNTLT.3), các thần Núi, Biển, Sông, Chằm, các thần Cồn, Gò, Bờ nước, Bãi Bằng và các thần trong cả nước.
Tầng thứ ba: hình vuông, có chỗ thiêu các con sinh và chôn lông huyết.
Ngoài ra còn có các công trình phục vụ cho lễ tế Giao như Thần Khố, Thần Trù, Trai Cung, có phòng Thượng Trà, sở Thượng Thiện.
Theo sử triều Nguyễn, thời Gia Long tế lộ thiên, nhưng đến thời Minh Mạng (năm 1841), cho làm các nhà vải, màu xanh ở tầng thứ nhất và màu vàng ở tầng thứ hai, tế xong thì triệt hạ.
Với quan niệm “việc tế tự Giao đàn là việc rất lớn,… sự báo đáp rất mực kính thành, không cần văn vẻ… cốt yếu là nghiêm túc, đem lòng thành kính đối với thần minh và vẫn không ngoài ý nghĩa báo đáp từ gốc, nhớ lại từ đầu…”, các vật phẩm cúng tế và đồ tự khí dùng trong tế Giao thời Nguyễn đều được chọn lựa hoặc chế tác riêng, hầu hết đều mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: màu xanh, hình tròn dùng cho đàn tế trời: màu vàng, hình vuông dùng cho đàn tế đất; các màu đỏ, đen, trắng dùng cho án thờ các vị tinh tú, vân vũ phong lôi, các thần Sơn Hải Giang Trạch. Tuỳ theo vị trí và tầm quan trọng từ cao xuống thấp mà dùng các loại đồ đựng bằng vàng, bạc, bịt vàng, bịt bạc, đồ pháp lam, đồ sứ, đồ mây tre đan hoặc đồ đồng… Số lượng các lễ phẩm cũng dừng ở các con số 3, 5, 7, 9 chứa đựng nhiều ý nghĩa biểu tượng của Dịch học (ba hạng lụa thờ: hạng nhất dài 9 thước, hạng nhì 7 thước, hạng ba 5 thước, ba tầng đàn v.v…). Các tế phần gồm có tam sinh (trâu, heo, dê) và các loại bánh trái, quả phẩm, xôi, dưa muối, canh, ngũ cốc… Ngay cả trên trang phục tế Giao, đặc biệt là áo tế Giao của nhà vua, màu sắc và hoa văn trang trí được chú trọng cả về mặt kỹ thuật và mỹ thuật, mang tính biểu đạt cao. Minh chứng sinh động cho loại áo này của vua Nguyễn hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, sử triều Nguyễn còn gọi là “cổn”.
Đó là chiếc áo tế Giao mang số ký hiệu BTH 06-Đd 05 bằng vải sa màu đen, cỏ nằm, nẹp lớn. Dải áo thêu rồng mây, thủy ba và các cụm rong tảo. Hai vạt áo xẻ dọc, hoi xoè. Tay áo dài hơn vạt áo, xoè rộng phần cửa tay.
Phần trang trí trên áo được bố trí thưa nhưng rất ấn tượng. Ngực áo thêu nổi hình rồng 5 móng mặt ngang. Dọc theo tay áo thêu hình rồng mây ngũ sắc, mặt rồng hướng về phía cổ tay. Cửa tay thêu 4 hình rồng đuổi với kích thước nhỏ nhưng rất tinh xảo.
Đặc biệt, phần lưng áo được trang trí nhiều hơn, với các văn tam sơn, mặt trời, mặt trăng và 5 vì tinh tú (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) tượng trưng cho ngũ hành. Hình mặt trời được thêu bên vai phải, màu trắng và xanh nhạt. Khoảng giữa hai vầng nhật nguyệt là 5 hình tròn viền mây thêu nối với nhau trên một đường thẳng. Chính giữa lưng áo là cụm tam sơn được thêu chỉ màu vàng, đỏ và xanh nhạt.


Tất cả các hình thêu trên áo đều được kim sa. Mặc dù phần trang trí trên áo không có nhiều hoa văn như các loại áo khác trong sưu tập trang phục cung đình triều Nguyễn, nhưng cách phối màu trên nền áo đen và kỹ thuật thêu được áp dụng rất tinh xảo. Màu sắc đa dạng của các hình thêu trên áo và các hạt kim sa óng ánh vàng tạo cho chiếc áo một vẻ sang trọng mà không quá cầu kỳ.
Sự hội tụ của những vì tinh tú, mặt trăng, mặt trời, núi sông, mây nước trên chiếc áo tế Giao của vua Nguyễn chính là phần quan trọng nhất góp vào màu sắc mang tính biểu trưng có chọn lọc trong nghi lễ tế Giao thời Nguyễn. Chiếc áo không chỉ thể hiện sự tinh tế về màu sắc, điêu luyện về kỹ thuật may dựng áo mà còn thể hiện rất sâu sắc về ý nghĩa biểu tượng, phản ánh trung thực nhân sinh quan, vũ trụ quan của một thời quân chủ. Chính vì những giá trị ấy, chiếc áo tế Giao thực sự là một bảo vật mang tầm quốc gia trong số ít ỏi các hiện vật thuộc sưu tập đồ dệt hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế.

Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc bài viết của chúng tôi. Hi vọng bài viết có thể cung cấp cho bạn sẽ có những thông tin bổ ích trong cuộc sống và công việc, và mở ra cho các bạn thêm những góc nhìn mới hơn về các vấn đề trong ngành nghề cũng như là các giá trị văn hóa của hai dân tộc Việt Nam - Nhật Bản. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi đễ có thêm những thông tin bổ ích khác và cơ hội việc làm cực hấp dẫn tại Công ty AGS nữa nhé.

Thông tin khác

Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

Tổng hợp

Tìm kiếm Blog này

AGS Accounting会社紹介(JP)

Translate

Lưu trữ Blog

QooQ