Công ty TNHH Kế toán - Kiểm toán AGS nằm trong hàng đầu những đơn vị chuyên
cung cấp các dịch vụ Kế toán, Kiểm toán, và tư vấn thuế tài chính. Cùng với
chất lượng dịch vụ tốt và uy tín, Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong ngành
nghề, để phục vụ công việc thì các kiến thức liên quan đến ngành nghề là điều
vô cùng cần thiết cho mỗi cá nhân trong tập thể. Hôm nay Công ty AGS sẽ cùng
các bạn quay về quá khứ lịch sử Việt Nam để tìm hiểu một trong các bảo vật
lịch sử nổi tiếng và có sự ảnh hưởng lớn đến nét văn hóa của dân tộc Việt Nam,
đó chính là Tượng Phật giáo thời Tây Sơn chùa Tây Phương thông qua món bảo vật
quốc gia này chúng ta sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc, những dấu
mốc thăng trầm của tổ quốc từ đó khẳng định lãnh thổ chủ quyền đất nước đến
bạn bè thế giới. Khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc trong mỗi con người
Việt Nam, vậy hãy cùng AGS đi tìm hiểu về bảo vật này và giai thoại liên quan
để chúng ta có những cái nhìn sâu sắc hơn bạn nhé.
Chùa Tây Phương (tên chữ là Phùng Phức Tự) là một ngôi chùa nằm trên ngọn núi
Tây Phương ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Chùa được ví như
một bảo tàng tượng Phật với nhiều pho tượng cổ độc đáo, sống động, có hồn.
Chùa Tây Phương được xây dựng từ thời Đường và đã được trùng tu nhiều lần vào
các thế kỷ 16, 17, 18. Năm 1554, chùa được xây lại trên nền cũ. Năm 1632, chùa
xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Năm 1660, Tây
Đô Vương Trịnh Tạc cho xây lại chùa mới. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn,
chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng
kiến trúc còn để lại như ngày nay.
Chùa được đặt trên đỉnh núi cao hơn 100 mét. Để lên đến cổng chùa, du khách
phải vượt qua 239 bậc lát đá ong. Dựa vào thế núi từ thấp lên cao, kiến trúc
chùa Tây Phương được xây dựng theo kiểu chữ Tam, gồm ba ngôi chùa song song
với nhau dọc theo sườn núi, mỗi chùa cách nhau 1,6m: chùa Hạ, chùa Trung và
chùa Thượng. Mặc dù mỗi ngôi chùa mang một kiến trúc riêng biệt nhưng lại nằm
trong một chỉnh thể hài hòa, thống nhất giữa không gian núi rừng trầm tịch và
thoáng đãng. Mỗi tòa nhà có hai tầng mái kiểu chồng diêm: mái trên có múi in
nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa
xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn. Mái chùa có những
góc đao cong vút được kết hợp bởi hai loại vật liệu chính là gỗ và đất nung,
với những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng rất sống động, vươn cao
tới 2,2m. Xung quanh diềm mái của ba toà nhà đều được chạm trổ tinh tế theo
hình lá triện cuốn rất công phu. Tường chùa xây toàn bằng gạch Bát Tràng, các
cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh, khắc hình cánh sen.
Không chỉ nổi bật với kiến trúc độc đáo, chùa Tây Phương còn là nơi tập trung
những tác phẩm đặc sắc của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù
điêu và tạc tượng. Hầu hết các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... làm
bằng gỗ trong chùa đều được bàn tay của các nghệ nhân chạm trổ những hình ảnh
quen thuộc của dân tộc Việt Nam như: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc,
rồng, phượng, hổ phù... Tác giả của những tác phẩm điêu khắc tinh xảo này
chính là các nghệ nhân làng mộc trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng
Sơn – làng mộc nổi tiếng nhất xứ Đoài thời bấy giờ.
Điểm nổi bật nhất ở chùa Tây Phương là các bộ tượng. Trong chùa có hơn 70 pho
tượng cùng với các bức phù điêu, chủ yếu được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp
vàng, như các bộ tượng Tam Thế Phật, bộ tượng Di Đà Tam Tôn, tượng Tuyết Sơn,
tượng Bồ tát Di Lặc, tượng Bồ tát Văn Thù, tượng Bồ tát Phổ Hiền, ... Nhiều
pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao
chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu. Phần lớn các tượng này đều được coi là có
niên đại cuối thế kỷ 18. Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19.
Đặc biệt là tượng 18 vị La Hán được thờ ở chùa Thượng. Đó là 18 vị Sư tổ của
Phật giáo. 18 bức tượng là 18 cá thể, mỗi người một dạng vẻ, một tư thế, ai
nấy đều có nét riêng biệt, chân thực. Khi tới thăm các pho tượng nơi đây không
ai không liên tưởng tới bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” của nhà thơ
Huy Cận.
Tổ thứ 1: Ma Ha Ca Diếp Tôn giả đứng ở bên trái tượng Tuyết Sơn, là một
người tuổi cao, ăn mặc nghiêm chỉnh, ánh mắt tinh tường, khoát tay ở thế chém.
Đây là một pho tượng đặc tả cả dung mạo và tính cách.
Tổ thứ 2: A Nan Đà tôn giả được tạo dáng đứng thẳng chững chạc, những
nếp áo chảy sóng, tỷ lệ các phần cân đối, cả hình dáng và nội tâm đều sáng
láng.
A Nan Đà (Ananda).
Tổ thứ 3: Thương Na Hòa Tu tôn giả bày ở gian bên phải toà chùa trong,
tạo hình là một ông già ngồi chân thõng chân co vắt ngang, một tay để trên đùi
còn tay kia thu trong bọc, áo mặc nhiều nếp lượn để lộ ngực xương, đôi mắt
xụp, miệng mím… tạo nên hình ảnh một ông già khắc khổ, luôn lo toan, suy nghĩ,
sống nội tâm.
Tổ thứ 4: Ưu Ba Cúc Đa tôn giả. Đây là một pho tượng rất thành công
trong sự cân đối và sống động.
Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta).
Tổ thứ 5: Đề Ca Đa tôn giả được bày ở bên trái Tổ thứ 4, ở thế ngồi,
hai tay đưa trước ngực gợi lại điềm lành, nhưng khuôn mặt đăm chiêu như có sự
vướng mắc chờ đợi người xứng đáng để trao truyền y bát.
Tổ thứ 6: Di Giá Ca tôn giả được đặt ở giữa Tổ thứ 3 và Tổ thứ 5, thế
đứng chững chạc, mặc áo dài nghiêm túc, tay phải thu trong bọc còn tay trái
như bấm đốt lần tính, khuôn mặt có vẻ bàng hoàng ngơ ngác. Tượng có dáng vẻ
bình tĩnh song nội tâm lại bất an.
Tổ thứ 7: Bà Tu Mật tôn giả được nghiên cứu rất kỹ để từng chi tiết
phối hợp lại bộc lộ rõ tính cách lịch thiệp, trang trọng, ngoại hình gắn bó
chặt chẽ với nội tâm.
Tổ thứ 8: Phật Đà Nan Đề tôn giả bày ở các góc ngoài phía bên phải toà
chùa trong, là một người béo tốt, ngồi bệt, chân phải xếp bằng, chân trái
chống nghiêng, tay trái để trên đùi, tay phải đang ngoáy tai. Đây là pho tượng
đặc biệt sống động biểu hiện sự giao tiếp và ứng xử văn hoá uyên bác.
Tổ thứ 9: Phục Đà Mật Đa tôn giả được bày ở bên trái Tổ thứ 8, đang
ngồi tựa mỏm đá, mặc áo nhiều nếp nhăn, để hở ngực và cánh tay. Tượng được
nhấn mạnh những nét gồ ghề, tạo sự già dặn từng trải pha chút hóm hỉnh. Đây là
tác phẩm thể hiện được một nội tâm khá phức tạp.
Phục Đà Mật Đa (Bouđhamitra).
Tổ thứ 10: Hiệp tôn giả được bày ở bên trái Tổ thứ 9, tả cảnh ngài đang đứng
tựa vào thân cây già, râu tóc đều rất ngắn, mặt bóng bẩy hóm hỉnh, tay phải
cầm quạt, còn tay trái tỳ lên cổ tay phải, đôi mắt tròn sáng, miệng mím xít…
Tất cả những đặc điểm biểu hiện đó là người hay quan sát, ít nói, có chí, rất
giàu nghị lực.
Hiệp tôn giả (Parsva).
Tổ thứ 11: Phú Na Dạ Xa là vị Tổ sư đã tìm được Mã Minh, giảng giải về Hiển
giáo và Mật giáo, rồi truyền thanh tịnh pháp nhân cho làm Tổ thứ 12.
Mã Minh (Asvagosha).
Tổ thứ 12: Mã Minh tôn giả đầy vẻ tự tin, thông minh, điềm tĩnh, rất
chan hoà với mọi người.
Tổ thứ 13: Ca Tỳ Ma La tôn giả được đặt ở giáp tường hậu cuối gian bên
trái toà chùa trong, đang bị mãng xà quấn quanh, nhưng Tổ vẫn điềm tĩnh đấu
tranh chống lại cái ác.
Tổ thứ 14: Long Thụ tôn giả được đặt ở bên trái Tổ thứ 13, là vị Tổ duy
nhất ngồi trên toà sen, với những đặc điểm: gò má cao, mắt nhắm, mũi nở, cằm
nhọn thể hiện một nhà hiền triết uyên bác, ngồi tĩnh lặng nhưng nội tâm sôi
động; là người từng trải, khắc khổ, xem nhẹ đời thường để suy tư hoàn chỉnh
kinh pháp.
La Hầu La Đa (Rahulata).
Tổ thứ 15: Ca Na Đề Bà là người đã truyền đại pháp cho La Hầu La Đa làm
Tổ thứ 16.
Tổ thứ 16: La Hầu La Đa tôn giả được bày ở bên phải Tổ thứ 13. Tổ ngồi
trên phiến đá, hai chân thả chạm đất, cây gậy tích trượng để tựa vai do tay
trái giữ. Tổ là vị duy nhất chít khăn cùng với toàn thân cân đối muốn gợi sự
quyền quý oai vệ.
Tổ thứ 17: Tăng Già Nan Đề tôn giả được bày ở góc trong bên trái của
toà chùa trong. Tượng được tạc với khuôn mặt chữ điền rạng rỡ, ngồi tì cằm lên
bàn tay úp đè nhau trên đầu gối, cánh mũi nở, gò má đầy, nhắm mắt, khép miệng
nhưng mỉm cười. Toàn thể bức tượng toát lên vẻ chững chạc, chứa đựng tư tưởng
lớn.
Cưu Ma La Đa (Kumarata).
Tổ thứ 18: Già Da Xá Đa tôn giả bày ở bên phải tượng Tổ thứ 16. Tượng có những
đặc điểm hết sức phóng khoáng khiến cho người xem có thể thả sức tưởng tượng
nhiều tình huống xảy ra phía trước
Xà Dạ Đa (Jayata).
Chùa Tây Phương với bộ tượng La Hán điển hình nhất của nghệ thuật điêu khắc
Việt Nam thế kỷ 18 đã là một công trình tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ
thuật Việt Nam thời Hậu Lê. Với những giá trị về kiến trúc, lịch sử, tôn giáo,
năm 1962, chùa Tây Phương đã được Bộ VHTTDL công nhận là Di tích lịch sử - văn
hóa quốc gia, đến năm 2014 được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt. Năm 2015,
Bộ tượng Phật giáo chùa Tây Phương thời Tây Sơn, niên đại cuối thế kỷ 18 đã
được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc bài viết của chúng tôi. Hi vọng
bài viết có thể cung cấp cho bạn sẽ có những thông tin bổ ích trong cuộc sống
và công việc, và mở ra cho các bạn thêm những góc nhìn mới hơn về các vấn đề
trong ngành nghề cũng như là các giá trị văn hóa của hai dân tộc Việt Nam -
Nhật Bản. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi đễ có thêm những thông tin bổ ích
khác và cơ hội việc làm cực hấp dẫn tại Công ty AGS nữa nhé.
Thông tin khác
Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

AGS luôn mở rộng cánh cửa cho những ứng viên muốn thử thách bản thân trong lĩnh vực Kế toán - Kiểm toán - Ngôn ngữ Nhật - Pháp lý - Nhân sự. Xem chi tiết bài viết để biết thêm về Thông tin tuyển dụng tại AGS bạn nhé!
Tổng hợp