1. Giới thiệu
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam được xác
định là những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ, lao động ít và doanh thu, lợi
nhuận thường ở mức hạn chế. Theo
Điều 4 Luật số 04/2017/QH14 “Hỗ trợ DNNVV”
ban hành ngày 04/07/2017 quy định: DNNVV bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh
nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Hiện nay, hầu hết các DNNVV tại Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều trở ngại
cho sự phát triển trong hoạt động kinh doanh, điển hình như: các khó khăn về
vốn, tài chính; thiếu phân hóa quản trị trong doanh nghiệp; tiếp cận công nghệ
thông tin hạn chế; ít cơ hội hòa nhập với thị trường nước ngoài;...
Để hỗ trợ sự phát triển của các DNNVV, Nhà nước đã đưa ra nhiều nội dung hỗ
trợ như: hỗ trợ tiếp cận tín dụng; thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV(1); hỗ trợ thuế, kế toán; hỗ trợ mặt bằng sản xuất; hỗ trợ công nghệ, hỗ trợ cơ
sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung; hỗ trợ mở rộng thị trường; hỗ
trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ
DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh; hỗ trợ - đầu tư DNNVV khởi nghiệp sáng tạo;
hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; thành lập quỹ phát
triển DNNVV(2)…
Dù vậy, việc tiếp cận nguồn vốn của các DNNVV còn nhiều khó khăn do sự thiếu
tín nhiệm đối với các DNNVV. Vì vậy, để nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn
tín dụng, các DNNVV cần tăng cường năng lực quản trị, kỹ năng quản lý, minh
bạch hóa tài chính của doanh nghiệp. Một trong những biện pháp để có thể nâng
cao tính minh bạch tài chính của doanh nghiệp chính là việc xây dựng và vận
hành kiểm soát nội bộ (KSNB) hiệu quả trong các DNNVV.
2. Tổng quan về kiểm soát nội bộ
2.1. Khái niệm kiểm soát nội bộ
Năm 2003, Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán và các Dịch vụ đảm bảo quốc tế - IAASB
thuộc liên đoàn Kế toán quốc tế - IFAC đã ban hành một số chuẩn mực Kiểm toán
mới, trong đó có Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 315 -
“Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về
đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn vị”(3) trên cơ sở đề cập một cách toàn
diện về khái niệm rủi ro trong kiểm toán, thay cho Chuẩn mực ISA 310 và ISA
400..
Dù về cơ bản, đa phần các định nghĩa về KSNB đều giống nhau nhưng vẫn có một
vài điểm khác biệt như: COSO nhấn mạnh KSNB như một quy trình; COBIT(4)
xem xét KSNB như một quy trình gồm các chính sách, thủ tục, nhiệm vụ và cơ cấu
tổ chức trợ giúp cho các quá trình và mục tiêu kinh doanh; SAC(5)
nhấn mạnh KSNB là một hệ thống. Tuy nhiên, chỉ có báo cáo của COSO, Chuẩn mực
ISA 315 và Chuẩn mực VSA 315 của Việt Nam là tập trung ở góc độ tổng thể doanh
nghiệp, còn các cơ sở khác chủ yếu tập trung vào một vài khía cạnh cụ thể
trong thực tế hoạt động của doanh nghiệp.
KSNB là công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu hoạt động và lợi
nhuận, ngăn ngừa sự mất mát các nguồn lực, giúp đảm bảo báo cáo tài chính được
công bố là đáng tin cậy và đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, các quy
định đã đề ra, tránh được thiệt hại cho danh tiếng của doanh nghiệp và những
hậu quả khác, giúp một đơn vị xác định được mục tiêu muốn đạt được, tránh
những rủi ro và biến động bất lợi.
KSNB là sự cố gắng của Ban Giám đốc nhằm giảm thiểu các yếu tố rủi ro hoặc nhằm đạt được các mục tiêu về kiểm soát, có mối quan hệ chặt chẽ giữa các mục tiêu của đơn vị và KSNB được thiết lập cho việc đạt được các mục tiêu ấy.
2.2. Mục tiêu kiểm soát nội bộ
Mục tiêu KSNB có thể chia thành 4 nhóm:
- Chiến lược, các mục tiêu tầm cao phù hợp với tầm nhìn của doanh nghiệp: KSNB phải đảm bảo giúp đơn vị nâng cao uy tín, mở rộng thị phần, thực hiện các chiến lược kinh doanh của đơn vị…;
- Hệ thống thông tin tài chính (KSNB về hệ thống thông tin tài chính): KSNB phải đảm bảo về tính trung thực và đáng tin cậy, ban lãnh đạo phải có trách nhiệm trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành;
- Hoạt động: KSNB cần phải giúp đơn vị sử dụng hiệu quả nguồn lực trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh;
- Tuân thủ pháp luật và các quy định: KSNB cần phải đảm bảo hợp lý về việc tuân thủ pháp luật và quy định.
3. KSNB trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam - VSA 315, KSNB bao gồm 5 thành
phần:
- Môi trường kiểm soát;
- Quy trình đánh giá rủi ro của đơn vị;
- Hệ thống thông tin liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính, bao gồm các quy trình kinh doanh có liên quan, và trao đổi thông tin;
- Các hoạt động kiểm soát;
- Giám sát các kiểm soát.
Việc thiết kế, thực hiện và duy trì KSNB có thể thay đổi theo quy mô và mức độ
phức tạp của đơn vị. Trong các DNNVV có thể sử dụng ít chức năng, ít thủ tục
hơn và các quy trình, thủ tục đơn giản hơn để thực hiện mục tiêu của mình.
Chính vì thế trong các DNNVV có thể sẽ không thể phân biệt một cách rõ rệt các
thành phần của KSNB, tuy nhiên, mọi yếu tố của KSNB sẽ vẫn được thực hiện.
Điều này có thể xảy ra khi chủ sở hữu, đồng thời là nhà quản lý có thể đồng
thời thực hiện nhiều chức năng liên quan đến các thành phần khác nhau của
KSNB.
3.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm các chức năng quản trị và quản lý, các quan điểm,
nhận thức và hành động của Ban quản trị và Ban giám đốc liên quan đến KSNB và
tầm quan trọng của KSNB đối với hoạt động của đơn vị...
Các yếu tố chủ yếu thuộc về môi trường kiểm soát: Truyền đạt thông tin và yêu
cầu thực thi tính chính trực và các giá trị đạo đức; Cam kết về năng lực; Sự
tham gia của Ban quản trị; Triết lý và phong cách điều hành của Ban Giám đốc;
Cơ cấu tổ chức; Phân công quyền hạn và trách nhiệm; Các chính sách và thông lệ
về nhân sự.
Trong các DNNVV thông thường trách nhiệm quản lý tập trung vào các nhà quản
lý. Việc chủ sở hữu tham gia vào quá trình quản lý trong các DNNVV không đồng
nghĩa với việc thiếu hoặc nhược điểm của KSNB trong các doanh nghiệp đó. Thông
thường, sự tham gia của chủ sở hữu có trình độ chuyên môn vào việc quản lý các
nghiệp vụ thường ngày có thể tăng hiệu quả của môi trường kiểm soát. Và trong
trường hợp này để giảm rủi ro gian lận từ phía các nhà quản lý xuống một mức
nào đó có thể được thực hiện thông qua việc áp dụng một số kiểm soát cơ bản.
3.2. Quy trình đánh giá rủi ro
Mỗi một doanh nghiệp không phụ thuộc vào cấu trúc, quy mô tổ chức hay lĩnh vực
ngành nghề, luôn đối diện với các loại rủi ro trong quá trình hoạt động kinh
doanh.
Quy trình đánh giá rủi ro là quá trình lặp đi lặp lại và là bộ phận quan trọng
của KSNB. Mọi đơn vị cần có quy trình đánh giá rủi ro (chính thức hoặc không
chính thức) để xác định những điều kiện ảnh hưởng trọng yếu tới khả năng đạt
được các mục tiêu của họ.
Mục tiêu của quy trình đánh giá rủi ro:
- Xác định rủi ro kinh doanh liên quan tới mục tiêu lập và trình bày báo cáo tài chính;
- Ước tính mức độ của rủi ro;
- Đánh giá khả năng xảy ra rủi ro;
- Quyết định các hành động thích hợp đối với các rủi ro đó.
Trong các DNNVV việc phân biệt từng nội dung của quy trình đánh giá rủi ro đôi
khi là tương đối khó khăn, đôi khi các DNNVV không xây dựng văn bản cụ thể về
quy trình đánh giá rủi ro.
3.3. Hệ thống thông tin liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính và trao đổi thông tin, bao gồm các quy trình kinh doanh có liên quan
Hệ thống thông tin đưa ra các báo cáo, các thông tin hoạt động, tài chính và
tính tuân thủ của doanh nghiệp, nó đảm bảo cho sự hoạt động cũng như giám sát
doanh nghiệp.
Đối với các DNNVV, hệ thống thông tin và trao đổi thông tin có thể được xây
dựng đơn giản hơn do số lượng nhân sự, cũng như phân cấp quản lý trong doanh
nghiệp thường không lớn, và nhà quản lý có thể trực tiếp giám sát hầu hết các
hoạt động trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến một số rủi ro trong các DNNVV cao hơn so với
các doanh nghiệp khác như:
- Rủi ro bị trùng lặp hoặc ghi nhận sai các giao dịch (các giao dịch có thể được ghi nhận không tuân theo quy trình, không tuân theo trật tự, có thể phản ánh không trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp, điều này làm tăng rủi ro lập báo cáo tài chính gian lận);
- Số lượng nhân viên ít có thể dẫn đến sự trùng lặp trong phân công phân nhiệm (thông thường sẽ vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm);
- Khả năng thực hiện hành vi gian lận từ phía nhân viên. Trong các DNNVV đôi lúc kế toán có khả năng tiếp cận các tài sản trong doanh nghiệp, thực hiện biển thủ tài sản do sự vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm;
- Khả năng vi phạm các quy định pháp luật liên quan đến thuế. Các DNNVV thông thường thực hiện tương đối nhiều giao dịch thanh toán bằng tiền mặt, dẫn đến việc ghi nhận thiếu doanh thu hay ghi tăng các khoản chi phí;
- Việc ít nhân viên trong các DNNVV cũng làm giảm điều kiện để tiến hành việc đối chiếu giữa các bộ phận với nhau (nguyên tắc “4 mắt” hay còn gọi là nguyên tắc kiểm tra chéo), làm tăng nguy cơ gian lận từ phía nhân viên.
Bên cạnh đó, các DNNVV cũng dễ gặp phải những rủi ro trong việc áp dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động. Chính vì số lượng nhân viên ít, đặc biệt tại
phòng kế toán, nên đôi khi kế toán có khả năng tiếp cận mọi thông tin, mọi
phần hành của hệ thống công nghệ thông tin. Điều này làm tăng khả năng gian
lận từ phía kế toán như việc nhập các dữ liệu sai lệch vào hệ thống kế toán,
thay đổi dữ liệu kế toán, thực hiện hồi tố, thực hiện các nghiệp vụ chưa được
phê duyệt bởi người có thẩm quyền…
3.4. Hoạt động kiểm soát
Các hoạt động kiểm soát là các chính sách và thủ tục nhằm đảm bảo rằng các chỉ
đạo của Ban giám đốc được thực hiện. Chúng giúp đảm bảo rằng các hành động cần
thiết sẽ được thực hiện để giải quyết những rủi ro xảy ra, giúp doanh nghiệp
đạt được các mục tiêu của mình. Hoạt động kiểm soát xảy ra trong toàn bộ doanh
nghiệp, trong các cấp và trong tất cả các bộ phận chức năng. Chúng bao gồm một
loạt các hoạt động đa dạng như phê chuẩn, ủy quyền, xác minh, đối chiếu, đánh
giá hiệu quả hoạt động, bảo vệ tài sản và phân công nhiệm vụ. Việc thực hiện
các biện pháp, quy trình, thủ tục này sẽ đảm bảo giảm thiểu rủi ro và tạo điều
kiện cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu đặt ra, các quyết định, chỉ thị từ Ban
lãnh đạo được thực thi nghiêm túc trong toàn doanh nghiệp.
Trong các DNNVV các hoạt động kiểm soát thông thường ít khi được quy định
chính thức bằng văn bản. Nguyên nhân của điều này chính là do nhà quản lý
thường xuyên trực tiếp kiểm soát các hoạt động trong doanh nghiệp. Ví dụ, nhà
quản lý có thể phát triển văn hóa doanh nghiệp, nâng cao tầm quan trọng của
các hoạt động kiểm soát; Tuyển dụng nhân sự có trình độ cao; Thực hiện giám
sát thu và chi so với dự toán; Phê duyệt tất cả các giao dịch lớn trong doanh
nghiệp; Thực hiện phân chia trách nhiệm giữa các bộ phận, nhân viên.
3.5. Giám sát các kiểm soát
KSNB và việc ứng dụng các kiểm soát sẽ thay đổi theo thời gian. Điều này là do
các nguyên nhân như: Nhân sự mới, các thủ tục giám sát có hiệu quả không giống
nhau, sự mâu thuẫn về thời gian và nguồn lực, sự thay đổi trong hoàn cảnh.
Chính vì thế, các nhà quản lý cần phải thực hiện việc nhận biết và quan sát
liên tục KSNB và hiệu quả của KSNB trong doanh nghiệp.
Giám sát các kiểm soát là quy trình đánh giá hiệu quả hoạt động của KSNB trong
từng giai đoạn.
Giám sát các kiểm soát có thể phân chia thành giám sát thường xuyên và giám
sát tách biệt.
- Giám sát thường xuyên: diễn ra ngay trong quá trình hoạt động, thông qua các hoạt động quản lý và giám sát do các nhà quản lý và các nhân viên thực hiện trong trách nhiệm của mình.
- Giám sát tách biệt: thường thực hiện qua các nhà quản lý và bộ phận kiểm toán nội bộ. Giám sát cung cấp thông tin cho Ban Giám đốc về việc liệu KSNB có: Hiệu quả trong việc xác định các mục tiêu kiểm soát; Hiểu và thi hành bởi các nhân viên trong đơn vị; Được sử dụng và tuân thủ hàng ngày; và Có thể sửa đổi hoặc cải tiến cho phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh.
Trong các DNNVV nhà quản lý thông thường hàng ngày sẽ trực tiếp thực hiện việc
giám sát mọi hoạt động của doanh nghiệp, các sai phạm trong hoạt động cũng sẽ
có khả năng được phát hiện một cách kịp thời. Tuy nhiên, việc giám sát các
hoạt động kiểm soát tại các DNNVV thường sẽ không mang tính chất chính thức,
và được thực hiện ngay trong khuôn khổ các hoạt động của doanh nghiệp. Và nếu
như nhà quản lý trực tiếp tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp thì
trong nhiều trường hợp sẽ phát hiện kịp thời những sai lệch thông tin tài
chính và đưa ra các biện pháp đối phó thích hợp.
4. Một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả KSNB nhằm tăng cường độ tin cậy của thông tin tài chính trong các DNNVV
Một trong những đặc điểm của DNNVV ảnh hưởng đến tính hiệu quả và hiệu lực của
KSNB chính là quy mô, số lượng nhân viên trong doanh nghiệp thường nhỏ. Chính
vì vậy, để xây dựng KSNB hiệu quả và hiệu lực trong các DNNVV, cần tập trung
vào việc kiểm soát đội ngũ nhân sự, bởi trong nhiều trường hợp, khả năng xảy
ra sai phạm bị ảnh hưởng trực tiếp bởi trình độ, năng lực, kinh nghiệm của đội
ngũ nhân sự (yếu tố con người).
KSNB hiệu quả yêu cần phải có đội ngũ nhân sự có trình độ phù hợp, được phân
chia nhiệm vụ một cách thích hợp, nắm vững trách nhiệm, nhiệm vụ và quyền lợi
của mình. Chính vì thế trong các DNNVV cần chú trọng tới việc thường xuyên
tiến hành đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự, đặc biệt đội ngũ kế
toán trong doanh nghiệp. Các chương trình đào tạo về kế toán tài chính, kế
toán quản trị, kế toán thuế... cần được thực hiện một cách thường xuyên tại
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả KSNB, KSNB cần được thường xuyên tiến hành
đánh giá, kịp thời phát hiện những khiếm khuyết trong KSNB để đưa ra các biện
pháp ứng phó thích hợp. Trong các doanh nghiệp có thể thành lập các bộ phận
chuyên trách thực hiện việc giám sát tách biệt, đánh giá hiệu quả của KSNB,
như thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, bộ phận kiểm tra nội bộ, thuê ngoài…
Dưới góc độ kiểm soát, việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ thông thường sẽ
có nhiều ưu điểm hơn so với các biện pháp khác. Bộ phận kiểm toán nội bộ có
thể đưa ra những đánh giá khách quan về hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động
trong doanh nghiệp, đưa ra những khuyến nghị trên cơ sở kiểm toán, thực hiện
giám sát đối với hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp; đưa ra các biện
pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong doanh nghiệp; nâng cao
hiệu quả của việc lập và trình bày báo cáo tài chính, tăng độ tin cậy của
thông tin tài chính trong doanh nghiệp… Tuy nhiên, vấn đề chính của việc thành
lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong các DNNVV chính là chi phí để thiết lập và
duy trì hoạt động của bộ phận này, bao gồm chi phí tiền lương và các chi phí
liên quan đến việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ phận. Việc thành
lập bộ phận kiểm tra nội bộ cũng sẽ có những ưu và nhược điểm như thành lập bộ
phận kiểm toán nội bộ. Chính vì vậy, trong các DNNVV, việc kiểm soát có thể
được thực hiện bằng cách khác - thông qua cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp xây dựng các quy định liên quan đến phân công phân nhiệm, quy
trình báo cáo giữa các bộ phận với các cấp quản lý tương ứng, quy định về việc
thực hiện và giám sát việc thực hiện các kiến nghị của các cuộc kiểm tra, kiểm
toán nội bộ. Nói cách khác, chức năng kiểm tra kiểm soát được giao cho các
nhân viên để tiết kiệm chi phí cho việc thành lập bộ phận chuyên trách. Tuy
nhiên, nhược điểm lớn của cách thức kiểm soát này chính là trình độ, năng lực
của nhân viên trong các DNNVV có thể không đáp ứng được yêu cầu trong việc
kiểm tra, kiểm soát các hoạt động riêng lẻ.
Sử dụng dịch vụ thuê ngoài trong việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp
không mấy thích hợp đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Tuy nhiên, đối với
các DNNVV, do nguồn vốn bị giới hạn, hình thức thuê ngoài cũng có thể được sử
dụng. Hình thức thuê ngoài chính là việc giao trách nhiệm kiểm toán nội bộ cho
các chuyên gia bên ngoài thực hiện. Sử dụng dịch vụ thuê ngoài sẽ giúp các
DNNVV tiết kiệm chi phí tới mức tối đa trong việc thực hiện một số nhiệm vụ
đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, điều mà các DNNVV không thể thực hiện
được một cách thường xuyên. Các chuyên gia bên ngoài được trang bị đầy đủ kiến
thức về mặt lý thuyết cũng như thực tế. Tuy nhiên, việc sử dụng dịch vụ bên
ngoài cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các chuyên gia bên ngoài không phải lúc nào
cũng hiểu rõ đặc điểm, tình hình thực tế trong doanh nghiệp, không nắm vững
các vấn đề trong các DNNVV… làm gia tăng khả năng xảy ra sai phạm trong kiểm
soát.
Có thể thấy mỗi hình thức sẽ có những ưu và nhược điểm khác nhau, nhưng đều có
điểm chung là sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tăng độ tin cậy
của thông tin tài chính trong doanh nghiệp.
Mục tiêu chính khi thiết lập KSNB trong doanh nghiệp, đặc biệt trong DNNVV
không phải là xây dựng KSNB có thể đảm bảo chắc chắn việc ngăn chặn toàn bộ
các sai phạm của doanh nghiệp, mà là xây dựng KSNB có khả năng kịp thời phát
hiện và đưa ra các biện pháp xử lý sai phạm, nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng
độ tin cậy của thông tin tài chính của doanh nghiệp.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
1. Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận, do UBND cấp tỉnh thành lập (Điều 9 Luật số
04/2017/QH14 “Hỗ trợ DNNVV” ban hành ngày 04/7/2017).
2. Quỹ Phát triển DNNVV là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận, do Thủ tướng Chính phủ thành lập (điều 20 Luật số
04/2017/QH14 “Hỗ trợ DNNVV” ban hành ngày 04/7/2017).
3. Bộ Tài chính (2013), VSA 315 - Xác định và đánh giá rủi ro các sai sót
trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn
vị.
4. CoBit (Control Objectives for Information and Related Technologies): Bộ
tiêu chuẩn quốc tế về quản lý công nghệ thông tin do Hiệp hội về kiểm tra hệ
thống thông tin và kết hợp kiểm soát ISACA (Information Systems Audit and
Control Association) và Viện quản trị công nghệ thông tin ITGI (The IT
Governance Institute) ban hành.
5. SAC (Research foundation’s system Auditability and Control): Báo cáo về
nghiên cứu cơ sở của hệ thống kiểm tra và kiểm soát do Ủy ban Kiểm toán nội bộ
của Mỹ (Institute of internal auditors - IIA) đưa ra.
Nguồn: https://tapchicongthuong.vn/anh-huong-cua-kiem-soat-noi-bo-den-do-tin-cay-cua-thong-tin-tai-chinh-trong-cac-doanh-nghiep-nho-va-vua-64515.htm