Bộ tượng Di Đà Tam Tôn chùa Thầy

2025/01/20

ViệtNam-Lịchsử

Công ty TNHH Kế toán - Kiểm toán AGS nằm trong hàng đầu những đơn vị chuyên cung cấp các dịch vụ Kế toán, Kiểm toán, và tư vấn thuế tài chính. Cùng với chất lượng dịch vụ tốt và uy tín, Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong ngành nghề, để phục vụ công việc thì các kiến thức liên quan đến ngành nghề là điều vô cùng cần thiết cho mỗi cá nhân trong tập thể. Hôm nay Công ty AGS sẽ cùng các bạn quay về quá khứ lịch sử Việt Nam để tìm hiểu một trong các bảo vật lịch sử nổi tiếng và có sự ảnh hưởng lớn đến nét văn hóa của dân tộc Việt Nam, đó chính là Bộ tượng Di Đà Tam Tôn chùa Thầy thông qua món bảo vật quốc gia này chúng ta sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc, những dấu mốc thăng trầm của tổ quốc từ đó khẳng định lãnh thổ chủ quyền đất nước đến bạn bè thế giới. Khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc trong mỗi con người Việt Nam, vậy hãy cùng AGS đi tìm hiểu về bảo vật này và giai thoại liên quan để chúng ta có những cái nhìn sâu sắc hơn bạn nhé.

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn tại chùa Thầy (huyện Quốc Oai, Hà Nội) có niên đại thế kỷ XVII được xem là bộ tượng gỗ Di Đà Tam Tôn có niên đại cổ nhất ở Việt Nam. Chính Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528-1613) là người đã có công cúng tiến bộ tượng này. Không chỉ mang trong mình nét điêu khắc độc đáo, bộ tượng còn liên quan mật thiết với tín ngưỡng Phật giáo mà danh tăng Từ Đạo Hạnh tu hành. Trong số 79 Bảo vật Quốc gia, Bộ tượng Di đà Tam Tôn tại chùa Thầy được cho là Bộ tượng Phật Di đà Tam Tôn gỗ cổ nhất ở Việt Nam. Chùa Thầy được Thiền sư Từ Đạo Hạnh xây dựng từ thời nhà Lý đến nay đã có niên đại hơn 1000 năm. Mặc dù những dấu tính kiến trúc xưa đã có thay đổi, rõ nét nhất sau những đợt trùng tu vào thế kỷ XVII, XVIII song những pho tượng cổ và những cổ vật vẫn còn khá nguyên vẹn.

Bảo vật quốc gia Bộ tượng Di Đà Tam Tôn tại chùa Thầy.

Chùa Thầy cũng được biết đến là ngôi chùa xếp thứ 3 về số lượng tượng cổ còn lưu giữ được sau chùa Mía với 252 pho tượng và chùa Cói với 37 pho tượng. Ngoài 36 tượng gỗ cổ, chùa Thầy còn rất nhiều những di vật quý khác như: nhang án, khám, tế khí, hạc, phượng, chân đèn, lư hương, sập thờ, sắc phong… Trong đợt công nhận lần thứ 3 của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 53/QĐ-TTG ngày 14/01/2015, cùng với 11 bảo vật khác, bộ tượng Di Đà Tam Tôn tại chùa Thầy đã chính thức trở thành Bảo vật Quốc gia Bảo vật Di Đà Tam Tôn có niên đại đầu thế kỷ XVII gồm ba pho tượng phật A Di Đà; Quan Thế Âm Bồ Tát và phật Đại Thế Chí. Bộ tượng được đặt trên vị trí cao nhất của Tam Bảo. Đây là bộ tượng được giáo sư Hà Văn Tấn khẳng định có niên đại 1607 và là bộ tượng Di Đà Tam tôn sớm nhất Việt Nam.


Tượng A Di Đà ngự chính giữa, vị trí cao nhất phía trong cùng của gian giữa tòa điện Thánh. Tượng theo tư thế kiết già. Đầu tượng có tóc kết xoắn ốc cao thiên về phía đỉnh. Tai đeo hoa, cổ đeo vòng trang trí hình tròn lớn ở giữa với hình hoa mai và anh lạc. Theo các chuyên gia về mỹ thuật thì cách tạo hình tượng đeo dây anh lạc chỉ có ở tượng niên đại thế kỷ XVI, XVII. Tay phải của tượng để trước lòng đùi kê lên bàn chân, tay trái lồng lên tay phải. Ngón cái của hai tay đan xen nhau, đều đeo nhẫn có mặt hoa cúc mãn khai. Tượng khoác áo cà sa chùng lỏng, gấp nhiều nếp phủ quanh cổ và lượn tròn trước bụng. Lớp áo ngoài trùm qua bờ vai, phủ lên hai gối xuống mở bệ sen. Bên trong có lớp xiêm rộng thắt lưng nhiều nếp và bó mối xoắn. Tượng Quan âm Bồ tát ngồi trong tư thế thiền định, chân xếp bằng trên mặt đài sen. Tượng có chiều cao 1,48m; ngang vai 0,58m; ngang đùi 1,14m. Đầu tượng đội mũ thiên quan, đính nhiều bông hoa tròn, đóa ở giữa có quầng sáng hình lá đề cân xứng. Mặt nhìn thẳng phía trước, đôi tay chắp trước ngực, bàn tay lồng úp vào nhau. Ngoài cùng khoác cà sa chùng rộng, cổ áo lượn tròn, phủ cân xứng hai bên tay, xuống đùi rồi trùm mặt bệ. Đường diềm áo có điểm hoa văn hình hạt ngọc và những bông hoa trông tựa như tràng hạt. Tượng Bồ tát Đại Thế Chí ngự trên bệ vuông, chân trái buông thõng, chân phải xếp bằng. Kích thước tượng: cao 1.22m, ngang vai 0.3m, ngang đùi 0.77m. Đầu đội mũ thiên quan, lượn vành núi cao, trang trí hoa sen. Mặt thanh nhỏ, Cổ đeo vòng. Tay phải cầm phất trần đặt lên đầu gối phải, tay trái để ngửa trước lòng. Tượng khoác cà sa chùng rộng, giống tượng đức Phật A Di Đà và Bồ tát Quan Thế âm. Quanh thân có vòng tràng hạt điểm hoa tròn, tua ngũ sắc rủ qua hai vai, quấn quanh tay, lượn xuống đùi. Cả ba pho Di Đà Tam Tôn đều được tạc bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng. Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, trong sách Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt đã viết rằng: "Bộ Di Đà Tam Tôn có niên đại sớm nhất bằng gỗ được biết ở nước ta. Sở dĩ pho tượng Bồ tát Đại Thế Chí ở chùa Thầy có niên đại vào thế kỷ XVII vì có hình thức gần với tượng Quan âm thời Mạc”. Không chỉ là những bức tượng Phật giáo mang ý nghĩa tâm linh lớn, bộ tượng Di Đà Tam Tôn còn thể hiện rõ sự phát triển của nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật điêu khắc gỗ ở Việt Nam từ thế kỷ XVII, XVIII.


Chuẩn mực về tạo hình

Chùa Thầy đến nay đã có niên đại hơn 1000 năm. Tương truyền, chùa được Thiền sư Từ Đạo Hạnh xây dựng từ thời nhà Lý. Mặc dù đã trải qua nhiều lần trùng tu, kiến trúc xưa đã có nhiều thay đổi song những pho tượng cổ và những cổ vật ở đây vẫn còn khá nguyên vẹn. Chùa Thầy hiện còn lưu giữ được 36 pho tượng gỗ cổ, ngoài ra còn rất nhiều hiện vật quý khác như: chân đèn, lư hương, sập thờ, nhang án, khám, tế khí, hạc, sắc phong….
Vào năm 2015, trong đợt công nhận lần thứ 3, bộ tượng Di Đà Tam Tôn Chùa Thầy đã chính thức trở thành Bảo vật Quốc gia. Trong quần thể kiến trúc chùa Thầy, bộ tượng Di Đà Tam Tôn được đặt tại khu vực chùa Thượng hay còn gọi là chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà Tam Tôn, Thích Ca, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, ban thờ Lý Thần Tông. Ngoài ra còn có 1 đôi Phượng Hoàng gỗ, 2 tượng Phỗng thế kỷ 18 đời vua Lê Ý Tông.
Trong sách “Chùa Việt Nam”, Giáo sư Hà Văn Tấn khẳng định: “Bộ tượng Di Đà Tam tôn ở chùa Thầy có niên đại 1607 hiện là bộ tượng Di Đà Tam tôn sớm nhất ở nước ta”. Các bộ tượng Di Đà Tam Tôn trong các ngôi chùa khác ở Việt Nam còn lại đến nay đều có niên đại sau bộ tượng Di Đà Tam Tôn tại chùa Thầy. Còn theo Giáo sư Trần Lâm Biền trong sách “Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt” cho rằng đây là “Bộ Di Đà Tam tôn có niên đại sớm nhất bằng gỗ được biết ở nước ta. Sở dĩ pho tượng Bồ tát Đại Thế Chí ở chùa Thầy có niên đại thế kỷ XVII vì có hình thức gần với tượng Quán Âm thời Mạc”.
Do đó, có thể thấy bộ tượng Di Đà Tam Tôn, đặc biệt là tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí ở chùa Thầy là sự chuyển tiếp, tạo tiền đề cho một phong cách tượng mới, ổn định dần vào giữa thế kỷ XVII. Kiến trúc đặc sắc của các pho tượng được các nhà nghiên cứu trình bày chi tiết trong bản “Thuyết minh về hiện vật đề nghị công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2014” của UBND huyện Quốc Oai. Trong đó, đã nêu rất rõ những nét kiến trúc độc đáo của bộ tượng Di Đà Tam Tôn tại chùa Thầy.


Bộ tượng Di Đà Tam Tôn được tạc bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng và đặt trên vị trí cao nhất của Tam Bảo. Trong đó, pho tượng A Di Đà (ở giữa) có dáng ngồi kiết già trên bệ sen, đặt trên đế hình chữ nhật cuốn góc, hai chân xếp bằng với bàn chân trái lộ trên lòng.
Tượng được tạc theo một khối tam giác, hai khuỷu tay hơi khuỳnh ra rồi thu vào trong lòng kết ấn Tam muội, tạo cho toàn thân đăng đối. Các khối cơ thể, dáng ngồi, thế chân, tay tượng cũng cân đối, hài hòa. Đầu tượng cao 60cm chiếm hơn một phần ba chiều cao của tượng, thể hiện các quý tướng như tóc bụt ốc, đầu nở to, biểu hiện cho trí tuệ, không có nhục kháo (là búi tóc trên đỉnh đầu của Phật, theo thông lệ là một quý tướng của Phật, biểu tượng của người đã giác ngộ) mà chỉ có bạch ngọc hào. Đây là một cách tạo hình tượng Phật đặc trưng của thế kỷ XVII thay cho hình thức nhục kháo của các tượng Phật thế kỷ XVI.
Tượng A Di Đà có khuôn mặt bầu bĩnh với má dưới nở hơn so với các tượng thời Mạc, mũi thanh, mắt khép hờ, miệng mỉm cười. Tai tượng chảy dài, thành tai rõ ràng, thuỳ tai chảy dài hóa đài sen rồi kết hạt tròn rủ xuống, là chi tiết trang trí mà tượng thời trước và thời sau không có, tạo nên đặc thù phong cách tượng thế kỷ XVII. Tượng mặc áo cà sa nhiều nếp chảy qua hai tay và chân, buông xuống bệ, phía trước để lộ dây lưng và thanh y.
Chính giữa ngực đeo dây Anh Lạc hình hoa cúc mãn khai kết hợp những hạt nổi tròn ở dưới và hai bên. Bệ tượng cao, gồm hai phần: bệ sen và đế. Ở đây các cánh không chìa ra, khối ở dạng điêu khắc tượng tròn khắc trên một khối hình chữ nhật dài, tròn hai đầu theo lối phù điêu. Viền sát với tượng là một hàng hạt tròn, to, chạm nổi chạy liên tiếp. Phía trên bệ sen chia hai lớp, lớp trong chỉ nhô mũi cánh, lớp ngoài trang trí bằng một lớp cánh nhỏ nhắc lại phía bên trong, đường viền đậm màu làm cánh sen trở nên vững chãi hơn. Giữa mỗi cánh sen bên trong có chạm chi tiết như bông hoa với ba cánh, hai cánh dưới nở xòe lên, trên có cuống buông thõng xuống, cánh trên cùng khớp với hai cánh trên trở thành một chi tiết trang trí khá đặc biệt và khó nhận ra đặc điểm của loài hoa cụ thể nào.
Phong cách cánh sen này tuy thuộc dạng phù điêu nhưng có cánh phồng, mũi cánh nhọn và hướng ra phía ngoài, đầu mũi cánh sen nhọn và có gờ cạnh nổi rõ là phong cách đài sen của phong cách tạo hình tượng Phật giáo thời Mạc. Đế tượng là khối chữ nhật có cuốn góc, trang trí bốn mặt, mặt trước và mặt sau trang trí ở chính giữa. Trong vòng lửa có ba hình lá đề đục kép, ở giữa chứa quả cầu tròn, mỗi quả có ba vòng khắc lõm, họa tiết cành cây khúc khuỷu với 13 nhánh tỏa từ trong ra, làm nền cho đồ án.
Bên phải của tượng A Di Đà là pho tượng Đại Thế Chí, tượng ngồi dáng kiết già trên tòa sen, đầu đội mũ Thiên Quan gồm ba vành, hoa văn trang trí là hạt tròn, vòng lửa, các dạng hoa và vân mây chạm chìm. Các dải tóc ôm lấy vai chảy xuông xuống dường như ít thấy ở các pho tượng cùng thời. Tai đeo hoa tai kiểu bông sen rủ xuống, ngực đeo dây Anh Lạc hình ba bông hoa, kết bằng những hạt nổi tròn. Mình mặc áo cà sa phủ kín đùi, vạt áo chảy xuống đài sen, đầu vạt áo cong đều, hai tay kết ấn mật phùng.
Khuôn mặt tượng Đại Thế Chí thống nhất phong cách với tượng Quan Thế Âm, nhưng không thanh thoát và gần gũi bằng. Các khối và nét có xu hướng nở to (hai cánh mũi, hai bên hàm trong tư thế hơi cúi xuống như muốn nhấn mạnh đến chất trí tuệ, sự chiếu rọi vào bên trong nội tâm). Đó là tính chất động không ngừng của ánh sáng trí tuệ nhằm cứu độ chúng sinh của Đại Thế Chí đã được khắc họa thành công qua nghệ thuật điêu khắc.
Tỷ lệ thân tượng với đầu tượng vượt quá tỷ lệ ba đầu nhưng chưa đến bốn đầu. Thân đầy đặn, bụng dưới căng, không còn hai hõm ở cánh tay sát sườn, như đặc điểm tượng thời Mạc. Nhìn nghiêng, và phía sau thân của tượng cũng khá đầy và đều có trang trí, chứng tỏ người tạo tượng đã chủ động đón hướng nhìn từ các phía. Trên thân tượng quấn những chuỗi hạt tròn và bầu dục (to nhỏ khác nhau) cùng với những bông cúc mãn khai (ba dải dọc, ba dải ngang) mang tính kỳ bí, chưa từng thấy ở tượng chùa nào.
Bệ sen chia ba lớp, cánh trang trí vân xoắn mũi hài, dạng nửa bông hoa như hoa mai với ba chuỗi hạt tròn, lớp dưới ôm tỏa lấy mặt bệ, hướng ngược chiều với ba lớp cánh sen trên. Pho tượng thứ 3 là Quan Thế Âm (bên trái tượng A Di Đà), tượng ngồi trên bệ vuông, thế ngồi khá thoải mái, không theo quy tắc xếp bằng trên đài sen và cũng ít gặp trong cách tạo hình tượng dạng này. Chân trái chống thẳng, chân phải co, đặt dưới đùi trái một cách tự nhiên. Tay trái để ngửa, hai ngón tay giữa cong lại như đang đỡ vật gì, tay phải cầm phất trần.
Nhờ đó, tượng có một dáng vẻ tự tại, vừa tĩnh lại vừa sống động. Đây là tượng Quan Thế Âm bồ tát trong mô típ cầm bình cam lồ, vẩy cành dương liễu để cứu độ chúng sinh. Đầu tượng đội mũ Thiên Quan Bảo thường gặp ở các dạng tượng Quan Thế Âm, vành mũ lượn cao được trang trí khá chi tiết họa tiết hoa sen và hoa tròn nhiều cánh, tóc búi cao, phía trước có dải, tỏa sang hai bên.

Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc bài viết của chúng tôi. Hi vọng bài viết có thể cung cấp cho bạn sẽ có những thông tin bổ ích trong cuộc sống và công việc, và mở ra cho các bạn thêm những góc nhìn mới hơn về các vấn đề trong ngành nghề cũng như là các giá trị văn hóa của hai dân tộc Việt Nam - Nhật Bản. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi đễ có thêm những thông tin bổ ích khác và cơ hội việc làm cực hấp dẫn tại Công ty AGS nữa nhé.

Thông tin khác

Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

Tổng hợp

Tìm kiếm Blog này

AGS Accounting会社紹介(JP)

Translate

Lưu trữ Blog

QooQ