Chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh Việt Nam - Từ quy định đến thực thi

Để chống lại các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh nhiều nước trên thế giới không chỉ quy định việc áp dụng các hình phạt đối với hành vi này, mà còn quy định về chính sách khoan hồng, theo đó, miễn hoặc giảm mức hình phạt đối với người cung cấp thông tin, chứng cứ cho cơ quan quản lý cạnh tranh về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. Tiếp thu kinh nghiệm pháp luật cạnh tranh thế giới, Việt Nam đã quy định về chính sách khoan hồng tại Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018, tuy nhiên, tính khả thi của các chính sách này trên thực tế còn hạn chế. Thông qua việc nhận diện nội hàm và bản chất của chính sách khoan hồng, bài viết phân tích, so sánh về chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh của Việt Nam với một số nước, chỉ ra những vấn đề cần khắc phục để chính sách này thực thi hiệu quả trên thực tế.

1. Đặt vấn đề

Cạnh tranh được nhìn nhận là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường, quá trình cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực để đạt được lợi thế trong kinh doanh. Tuy nhiên, khi đối mặt với cạnh tranh, không ít doanh nghiệp nhìn nhận cạnh tranh như một hiểm họa đối với khả năng thu lợi nhuận cũng như sự tồn vong của mình. Vì vậy, thay vì nỗ lực điều chỉnh nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển, một số doanh nghiệp lại cấu kết, dàn xếp, thỏa thuận với nhau về giá cả, chất lượng, sản lượng, thị trường, khách hàng… nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận làm hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền hóa thị trường. Các yếu tố quan trọng của thị trường như giá, chất lượng, sản lượng, khách hàng… không còn tuân theo quy luật vận động khách quan, không được quyết định bởi sự tương tác giữa các yếu tố của thị trường cạnh tranh, mà bị khống chế bởi các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.

Theo pháp luật cạnh tranh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm đạt đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc thống nhất hành động. Các thỏa thuận này đa phần là thỏa thuận ngầm nên việc chứng minh sự tồn tại của các thỏa thuận để xử lý theo pháp luật rất khó khăn.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, chỉ có thể chống lại các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh một cách hữu hiệu khi có sự hợp tác từ các bên tham gia thỏa thuận. Vì vậy, nhiều quốc gia đã thông qua và áp dụng chính sách khoan hồng trong pháp luật cạnh tranh nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân tiết lộ chứng cứ và thông tin quan trọng làm cơ sở cho việc phát hiện, điều tra và xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

2. Chính sách khoan hồng trong pháp luật cạnh tranh và kinh nghiệm tại một số quốc gia trên thế giới

Chính sách khoan hồng là cơ chế do pháp luật cạnh tranh quy định dành quyền miễn trừ các chế tài xử phạt hoặc giảm nhẹ mức xử phạt, mà pháp luật áp dụng với người đã tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhưng chủ động khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu hay chứng cứ chứng minh hành vi thỏa thuận và có sự hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình điều tra. Nói một cách khái quát, chính sách khoan hồng là quy định cho phép miễn trừ hay giảm trừ hình phạt đối với doanh nghiệp đã tham gia vào các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, vi phạm pháp luật cạnh tranh nhưng sau đó đã chủ động hợp tác để giúp cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh phát hiện và điều tra, xử lý đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đó. Từ góc độ này, chính sách khoan hồng có nét tương đồng với quy định miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự, tuy nhiên, thực tiễn có sự khác biệt đáng kể khi chính sách khoan hồng có phạm vi áp dụng rộng hơn, gồm cả miễn trừ toàn bộ và miễn trừ một phần hình phạt. Hiện, cơ quan cạnh tranh ở rất nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách khoan hồng trong việc chống lại các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, là công cụ nhằm phá vỡ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Bản chất của chính sách khoan hồng nằm ở khả năng cho phép các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh tiếp cận được các chứng cứ và thông tin mật liên quan đến các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bất hợp pháp. Nếu không có chính sách này, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh sẽ cực kỳ khó khăn và tốn thời gian để thu thập chứng cứ trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra. Vì vậy, khoan hồng có thể được sử dụng như phương pháp bổ sung trong việc thu thập chứng cứ, giúp giảm đáng kể chi phí điều tra cũng như chi phí xét xử cho cả cơ quan quản lý cạnh tranh và Tòa án. Các cơ hội được hưởng miễn trừ hình phạt cũng khuyến khích người có chức vụ trong doanh nghiệp, là người nắm giữ đầy đủ và chi tiết các bằng chứng ngay từ đầu, cung cấp thông tin về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, từ đó, giúp cho việc thu thập các chứng cứ này của các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh trở nên dễ dàng hơn[1].

Chính sách khoan hồng sau khi được ban hành ở nhiều quốc gia trên thế giới đã khẳng định được vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh phát hiện, điều tra và xử lý thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ quy định chính sách khoan hồng riêng cho doanh nghiệp và cá nhân. Việc miễn trừ trách nhiệm hình sự sẽ tự động phê chuẩn khi doanh nghiệp tự báo cáo về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trước khi cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh tiến hành điều tra vụ việc. Theo kinh nghiệm thực tiễn của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU), trên 90% vụ việc thỏa thuận ngầm được phát hiện từ đơn tự thú xin khoan hồng[2].

Chính sách khoan hồng gồm một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, để được hưởng miễn trừ theo chính sách khoan hồng, đối tượng phải chủ động khai báo, cung cấp các thông tin, tài liệu hay chứng cứ chứng minh hành vi thỏa thuận và có sự hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình điều tra. Để được hưởng miễn trừ hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng, doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc cá nhân liên quan phải chủ động khai báo trước khi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh phát hiện và phải cung cấp đầy đủ các thông tin giúp điều tra hành vi vi phạm.

Thứ hai, chủ thể được hưởng miễn trừ là cá nhân, doanh nghiệp thực hiện khai báo và hợp tác với cơ quan điều tra. Pháp luật cạnh tranh nhiều quốc gia quy định những cá nhân, doanh nghiệp khai báo đầu tiên mới được hưởng miễn trừ, thường là miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm pháp lý, tức là cá nhân, doanh nghiệp thỏa mãn điều kiện được hưởng miễn trừ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và không bị xử phạt bất kỳ một khoản tiền nào. Điều kiện là tại thời điểm đối tượng khai báo, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh chưa nhận được thông tin khai báo từ bất kỳ nguồn nào và chưa có thông tin hoặc tự phát hiện được hành vi vi phạm. Ở một số quốc gia khác, pháp luật quy định miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm pháp lý cho cá nhân, doanh nghiệp khai báo đầu tiên, đồng thời, có thể xem xét miễn một phần tránh nhiệm pháp lý cho các đối tượng khai báo tiếp theo, thường chỉ giới hạn đến đối tượng thứ ba. Cũng có quốc gia quy định xem xét cho hưởng miễn trừ đối với cá nhân, doanh nghiệp khai báo cả trong trường hợp khi cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh đã có thông tin và bắt đầu điều tra vụ việc.

Thứ ba, nhiều nước quy định để được hưởng khoan hồng, cá nhân, doanh nghiệp khai báo không được có vai trò tổ chức hoặc hành vi lôi kéo, kêu gọi, dụ dỗ hay cưỡng ép các cá nhân, doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận. Quy định này nhằm vào những cá nhân, doanh nghiệp đóng vai trò tổ chức, lôi kéo hoặc lãnh đạo thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Khi bắt đầu lôi kéo để thỏa thuận, họ phải hiểu rằng, sẽ không còn đường để rút lui vì khả năng bị phát hiện không hề nhỏ và các thành viên khác có thể rút lui an toàn với chính sách khoan hồng.

Thực tế cho thấy, việc phát hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh rất khó khăn đối với hầu hết các cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới, chỉ ở mức từ 10% đến 30%, vì vậy, chính sách khoan hồng trở thành công cụ quan trọng đối với nhiều cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới. Theo kết quả khảo sát của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) được thực hiện vào năm 2017 đối với một số cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới cho thấy, chính sách khoan hồng là công cụ phát hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hữu hiệu nhất, tỉ lệ vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được phát hiện thông qua chính sách khoan hồng khoảng từ 45% đến 55% ở một số nước như Canada, Chile, Hàn Quốc, New Zealand và tới 80% ở các nước châu Âu. Tại Hoa Kỳ, trên 90% tổng số tiền xử phạt do Cục Điều tra chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ áp dụng đối với các bên vi phạm có liên quan tới các các cuộc điều tra có sự hỗ trợ từ chính sách khoan hồng. Ở khu vực Đông Nam Á (ASEAN), đến nay, chính sách khoan hồng cũng được áp dụng tại các quốc gia đã có Luật Cạnh tranh như Malaysia, Philippines, Singapore và bước đầu thu được những kết quả tích cực trong công tác phát hiện, điều tra, xử lý đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trở thành công cụ hiệu quả để phá vỡ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh từ bên trong. Một số quốc gia như Indonesia, Brunei, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam đã xây dựng chính sách khoan hồng để thực hiện nhưng chưa hiệu quả[3].

3. Chính sách khoan hồng trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam

Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam chưa quy định chính sách khoan hồng. Các vụ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh phát hiện, điều tra và xử lý chủ yếu dựa trên các thông tin tự phát hiện hoặc được sự trợ giúp từ một số cơ quan truyền thông. Luật Cạnh tranh năm 2004 chỉ quy định về các tình tiết giảm nhẹ áp dụng với doanh nghiệp trong một số trường hợp nhất định. Sau hơn 10 năm thực thi cho thấy, quy định về tình tiết giảm nhẹ không giúp phát hiện hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh do chưa tạo được động cơ và áp lực lớn để doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp thông tin về thỏa thuận mà họ tham gia.

Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, sau khi điều tra, xử lý đối với hành vi thỏa thuận ấn định phí bảo hiểm vật chất xe ô tô giữa 19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ và vụ việc thỏa thuận ấn định phí bảo hiểm học sinh giữa 14 doanh nghiệp bảo hiểm tại địa bàn tỉnh Khánh Hòa, từ năm 2012 đến nay, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh chưa phát hiện, điều tra được thêm bất kỳ vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nào khác. Các cơ chế phát hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hiện không còn nhiều tác dụng. Trong khi chính sách khoan hồng được nhiều cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh trên thế giới coi là công cụ hữu hiệu, giúp phát hiện trên 90% số vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh[4], đặc biệt, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh xuyên biên giới, việc bổ sung quy định về chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh năm 2018 và áp dụng một cách hiệu quả trong thực tiễn là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường phát hiện và điều tra vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Nội dung chính sách khoan hồng được quy định tại Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018 gồm:

Doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có thẩm quyền quyết định việc miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Việc miễn hoặc giảm mức xử phạt được thực hiện trên cơ sở đáp ứng đủ các điều kiện:

3.1 Đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Chỉ những doanh nghiệp là thành viên của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mới là đối tượng được hưởng khoan hồng, trừ những doanh nghiệp có vai trò tổ chức hoặc ép buộc các doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Như vậy, tất cả cá nhân và tổ chức kinh doanh, gồm các loại hình công ty, hợp tác xã và hộ kinh doanh (trừ một số chủ thể được pháp luật quy định) đều có thể là đối tượng được hưởng chính sách khoan hồng, nếu tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Quy định này khá tương đồng với quy định của pháp luật cạnh tranh nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp luật cạnh tranh của Australia quy định chính sách khoan hồng chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp đã và đang là thành viên của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tương tự, pháp luật cạnh tranh Đức hay Luật Chống độc quyền của Nhật Bản cũng quy định, một doanh nghiệp thực hiện thỏa thuận cạnh tranh bất hợp pháp được hưởng chính sách khoan hồng, nếu thỏa mãn thêm các điều kiện khác mà pháp luật quy định. Thông báo khoan hồng của Ủy ban châu Âu cũng quy định chính sách khoan hồng được áp dụng cho doanh nghiệp tham gia vào một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh[5]…

Rõ ràng, chính sách khoan hồng chỉ dành cho doanh nghiệp là thành viên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp này phá vỡ liên kết, bội ước với các thành viên của thỏa thuận để giảm nhẹ thiệt hại cho mình nếu như bị trừng phạt bởi pháp luật. Đây là quy định hợp lý.

3.2. Tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra

Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép miễn giảm trách nhiệm với doanh nghiệp thực hiện khai báo trước khi cơ quan có thẩm quyền bắt đầu việc điều tra. Nếu cơ quan điều tra tự phát hiện hoặc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị tố giác bởi một bên thứ ba khác và việc điều tra đã được bắt đầu, thì các chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không được hưởng khoan hồng.

Tuy nhiên, để hoàn thiện quy định này, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của Hoa Kỳ, theo đó, ngay cả khi cơ quan chống độc quyền đã tiến hành điều tra dựa trên nguồn tin của bên thứ ba, thì doanh nghiệp tự nguyện vào thời điểm khai báo đủ các điều kiện loại A (type A leniency) và đáp ứng thêm 07 điều kiện thuộc điều kiện loại B (type B leniency), trong đó có hai điều kiện cần lưu ý là: (i) cơ quan chống độc quyền chưa có đủ điều kiện để truy tố; (ii) việc cho doanh nghiệp khai báo hưởng khoan hồng không tạo ra sự bất bình đẳng đối với các bên khác[6]. Nếu pháp luật cạnh tranh Việt Nam hoàn thiện thêm quy định này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ động, tích cực khai báo với cơ quan quản lý cạnh tranh ngay cả khi cuộc điều tra vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã được khởi động, rút ngắn quá trình điều tra để sớm đạt kết quả.

3.3. Khai báo trung thực và cung cấp toàn bộ thông tin, chứng cứ có được về hành vi vi phạm, có giá trị đáng kể cho việc phát hiện, điều tra và xử lý hành vi vi phạm

Tiêu chuẩn của chất lượng thông tin mà doanh nghiệp cung cấp là phải “có giá trị đáng kể”, tuy nhiên, Luật Cạnh tranh năm 2018 chưa có những quy định để xác định giá trị của thông tin. Việc đánh giá chất lượng của thông tin phụ thuộc vào sự chủ quan tùy nghi của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Các doanh nghiệp tiến hành khai báo và cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra vẫn chưa chắc được hưởng khoan hồng nếu các thông tin cung cấp không được Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đánh giá là có đủ giá trị. Bởi vậy, quy định về đánh giá “tính giá trị” của thông tin cần minh bạch và rõ ràng hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong việc chủ động tố giác các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Để hoàn thiện quy định này, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của Hoa Kỳ. Pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ không bắt buộc doanh nghiệp phải cung cấp thông tin và chứng cứ “có giá trị”, mà chỉ cần họ nộp đơn cung cấp tài liệu và thông tin mà họ được sở hữu hay kiểm soát; thực hiện giải trình đầy đủ về các sự kiện mà họ tham gia và biết rõ liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm đang được điều tra với cơ quan chống độc quyền Hoa Kỳ[7]. Chính sách khoan hồng của Hoa Kỳ không đặt nặng vào giá trị chứng cứ, đặc biệt, khi hành vi vi phạm chưa được bất kỳ bên nào trình báo[8].

3.4 Hợp tác với cơ quan điều tra trong suốt quá trình điều tra và xử lý hành vi vi phạm

Ngoài việc tự nguyện khai báo và cung cấp thông tin về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, chủ thể khai báo cần phối hợp với cơ quan điều tra trong suốt quá trình điều tra, cho đến khi hành vi vi phạm đã được xử lý. Đây là quy định phù hợp với xu hướng chung của pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ cũng như Đức yêu cầu doanh nghiệp khai báo và nộp đơn xin được khoan hồng phải hợp tác liên tục và đầy đủ trong suốt quá trình điều tra. Chính sách khoan hồng của Malaysia cũng áp dụng đối với doanh nghiệp đã hỗ trợ đáng kể cho quá trình điều tra vi phạm[9]. Doanh nghiệp khai báo không chỉ cung cấp thông tin, chứng cứ, mà còn tuân thủ các yêu cầu của cơ quan quản lý cạnh tranh trong suốt quá trình điều tra để quá trình xử lý vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thuận lợi và hiệu quả.

Như vậy, doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn có cơ hội được hưởng chính sách khoan hồng nếu đáp ứng các điều kiện trên. Khi đó, các doanh nghiệp đầu tiên, thứ hai và thứ ba nộp đơn xin hưởng khoan hồng sẽ nhận được mức miễn giảm lần lượt là 100%, 60% và 40% mức phạt tiền đối hành vi đã thực hiện. Việc miễn hoặc giảm hình phạt được coi là phần thưởng cho sự chủ động khai báo và hợp tác. Mặc dù các quy định về miễn giảm của pháp luật cạnh tranh Việt Nam có sự linh hoạt hơn so với pháp luật các nước, song với bối cảnh, tình hình đất nước hiện tại, đây là quy định phù hợp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp khai báo và hợp tác để nhận được sự khoan hồng, góp phần vào việc phát hiện, điều tra, xử lý hiệu quả các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.

Quy định về chính sách khoan hồng không áp dụng đối với doanh nghiệp có vai trò ép buộc hoặc tổ chức cho các doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận. Chính sách khoan hồng áp dụng cho không quá 03 doanh nghiệp đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đáp ứng đủ các điều kiện. Căn cứ xác định doanh nghiệp được hưởng khoan hồng gồm: thứ tự khai báo; thời điểm khai báo; mức độ trung thực và giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp. Doanh nghiệp đầu tiên có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện được miễn 100% mức phạt tiền. Doanh nghiệp thứ hai và thứ ba có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện lần lượt được giảm 60% và 40% mức phạt tiền[10]. Tuy nhiên, điều kiện ưu tiên cho doanh nghiệp nộp đơn đầu tiên dường như cần xem xét điều chỉnh, vì có sự không công bằng nếu như cùng lúc nhiều doanh nghiệp đều mong muốn nộp đơn. Vì vậy, pháp luật cần quy định rõ khoảng thời gian mà doanh nghiệp phải cung cấp thông tin và chứng cứ có giá trị cho cơ quan có thẩm quyền; quy định cụ thể hơn về hình thức khai báo thông tin.

Như vậy, các quy định về chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh năm 2018 của Việt Nam mới chủ yếu là những nguyên tắc cơ bản giới hạn trong một điều khoản, chưa thực sự cụ thể, không nêu chi tiết quy trình thực hiện, nên các cá nhân, tổ chức và cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh khó có thể áp dụng hiệu quả ngay được. Đặc biệt, pháp luật cạnh tranh không quy định rõ việc doanh nghiệp chủ động khai báo có thể được miễn trách nhiệm hình sự cho chính doanh nghiệp và cán bộ quản lý của doanh nghiệp đó hay không. Cơ chế thực hiện chính sách khoan hồng chưa rõ ràng, thiếu hướng dẫn về cách thức thông báo, quy trình bảo mật thông tin và thời gian áp dụng. Việc thiếu chi tiết này gây khó khăn cho cả doanh nghiệp muốn khai báo và cơ quan quản lý khi áp dụng chính sách, ảnh hưởng đến tính hiệu quả của công cụ này, đặc biệt, về mặt thủ tục. Vì vậy, Việt Nam cần nghiên cứu kinh nghiệm thực thi pháp luật của các nước để hướng dẫn cụ thể hơn, bảo đảm việc thực thi chính sách khoan hồng có hiệu lực, hiệu quả.

4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam

Để nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách khoan hồng trong pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam, cần tập trung vào việc hoàn thiện quy định pháp luật, tăng cường năng lực thực thi của cơ quan quản lý cạnh tranh, xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tự giác hợp tác, nâng cao nhận thức cộng đồng doanh nghiệp và thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan.

4.1. Tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về chính sách khoan hồng

Như đã phân tích, các quy định về chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh năm 2018 của Việt Nam chủ yếu là những nguyên tắc cơ bản giới hạn trong một điều khoản, chưa cụ thể, không nêu chi tiết quy trình thực hiện… Bởi vậy, cần có văn bản hướng dẫn thi hành để quy định chi tiết, cụ thể các vấn đề sau:

Một là, quy định rõ hơn về phạm vi áp dụng, về các trường hợp doanh nghiệp được áp dụng chính sách khoan hồng, gồm cả các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, thao túng thị trường. Bản chất của chính sách khoan hồng là công cụ nhằm phát hiện để điều tra, xử lý thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vì vậy mọi cá nhân, doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm và đáp ứng đủ điều kiện theo luật định đều được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Những doanh nghiệp có vai trò ép buộc, tổ chức thì không được miễn, giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng, tránh trường hợp những doanh nghiệp này lợi dụng chính sách, pháp luật và quyền lực của cơ quan thực thi như một biện pháp cạnh tranh không chính đáng.

Hai là, quy định chi tiết về điều kiện áp dụng, cụ thể cần xây dựng các tiêu chí rõ ràng để đánh giá và xác định doanh nghiệp đủ điều kiện được hưởng khoan hồng, bảo đảm khách quan và công bằng. Về điều kiện áp dụng chính sách khoan hồng, nên tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật một số quốc gia trên thế giới để hoàn thiện khoản 3 Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018. Cụ thể:

- Đối với điều kiện doanh nghiệp, cá nhân phải tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra (điểm b khoản 3 Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018), có thể mở rộng trong các trường hợp đã tiến hành điều tra, nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ điều kiện để truy tố hoặc việc cho doanh nghiệp khai báo hưởng khoan hồng không tạo ra sự bất bình đẳng đối với các bên khác, thì việc tự nguyên khai báo vẫn có thể được áp dụng chính sách khoan hồng.

- Việc khai báo và cung cấp thông tin (điểm c khoản 3 Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018) không nhất thiết phải là thông tin chứng cứ “có giá trị”, mà chỉ cần quy định “doanh nghiệp tự nguyên nộp đơn cung cấp tài liệu và thông tin mà họ được sở hữu hay kiểm soát; thực hiện giải trình đầy đủ về các sự kiện mà họ tham gia và biết rõ liên quan đến thỏa thuận hạn chế canh tranh bị cấm đang được điều tra với cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh”.

Ba là, để tăng khả năng thành công trong các vụ việc về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, nên bổ sung việc áp dụng chính sách khoan hồng đối với các cá nhân có liên quan. Điều này mở rộng phạm vi tiếp nhận thông tin đa dạng, góp phần quan trọng trong thu thập chứng cứ. Vì vậy, nên sửa đổi Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018 theo hướng: “Cá nhân có liên quan đến việc hình thành, thúc đẩy, thực hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nếu thỏa mãn các điều kiện tại khoản 3 Điều này có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc giảm hình phạt”.

Bốn là, quy định về chính sách khoan hồng tại Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018 chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản, thiếu trình tự, thủ tục áp dụng. Vì vậy, trong văn bản hướng dẫn thi hành cần xây dựng trình tự, thủ tục nhằm bảo đảm rõ ràng, minh bạch và sự chắc chắn cho các cá nhân, tổ chức và cả cơ quan thực thi khi áp dụng các quy định về chính sách khoan hồng. Cụ thể:

- Về quy trình áp dụng, cần quy định rõ thời hạn và quy trình thực hiện, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tự nguyện khai báo để hưởng chính sách khoan hồng; thiết lập các nguyên tắc và tiêu chí cụ thể để đánh giá, lựa chọn doanh nghiệp được hưởng chính sách khoan hồng, nhằm tránh việc áp dụng tùy tiện và bảo đảm tính công bằng, minh bạch.

- Về thủ tục, nên quy định doanh nghiệp có thể tiếp nhận các mẫu đơn để khai báo trực tiếp hoặc có thể đăng ký trước để có thời gian chuẩn bị hồ sơ. Việc đưa ra lựa chọn nộp đơn trực tiếp, tiến hành khai báo ngay và nộp đơn xin giữ chỗ nhằm bảo đảm thời hạn và tính “nộp đơn đầu tiên” là quy định có ý nghĩa tích cực trong việc khuyến khích, tạo động lực để doanh nghiệp chủ động khai báo.

- Thiết lập cơ chế động viên, khuyến khích, đưa ra các quy định về mức độ giảm nhẹ, miễn trừ trách nhiệm cạnh tranh tùy thuộc vào mức độ hợp tác và cung cấp thông tin của doanh nghiệp, tạo động lực để họ chủ động hợp tác.

- Công khai, minh bạch hóa quy trình áp dụng chính sách khoan hồng để tạo sự công bằng và tin tưởng cho các bên tham gia. Thiết lập cơ chế miễn, giảm mức phạt tiền cụ thể cho từng doanh nghiệp tùy thuộc vào thời điểm nộp đơn và mức độ hợp tác (ví dụ, miễn 100% cho doanh nghiệp đầu tiên, giảm 60% cho doanh nghiệp thứ hai, 40% cho doanh nghiệp thứ ba).

4.2. Nâng cao vai trò của cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh, xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tự giác hợp tác

- Cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh, cụ thể là Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cần tăng cường đào tạo và chuyên môn hóa, tập trung đầu tư vào đào tạo, nâng cao kỹ năng cho cán bộ của cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh để nắm vững quy trình điều tra, đánh giá và áp dụng chính sách khoan hồng.

- Xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về chính sách, pháp luật khoan hồng, cách thức áp dụng và lợi ích của việc tự nguyện khai báo và hợp tác; tổ chức hội thảo, tập huấn để doanh nghiệp hiểu rõ về chính sách khoan hồng và lợi ích của việc hợp tác, chủ động cung cấp thông tin cho cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh.

- Xây dựng công cụ hỗ trợ, phát triển các công cụ, phần mềm hỗ trợ việc thu thập, phân tích thông tin, đánh giá mức độ hợp tác của doanh nghiệp, bảo đảm quá trình điều tra diễn ra hiệu quả.

- Thực hiện cơ chế khuyến khích doanh nghiệp nhìn nhận chính sách khoan hồng như một công cụ hữu ích để tự điều chỉnh và tuân thủ pháp luật, từ đó, góp phần tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, công bằng. Khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện khai báo và hợp tác ngay từ giai đoạn đầu của quá trình điều tra để được hưởng những ưu đãi tốt nhất. Tạo môi trường hợp tác an toàn, bảo đảm doanh nghiệp hợp tác sẽ không bị trả đũa hoặc gặp bất lợi từ các doanh nghiệp khác trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

4.3. Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong áp dụng chính sách khoan hồng

Cơ chế phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền trong áp dụng pháp luật là phương thức tổ chức hoạt động chung giữa các cơ quan để thực hiện mục tiêu chung, phối hợp hành động trong áp dụng pháp luật ở các lĩnh vực cụ thể. Cơ chế phối hợp trong áp dụng chính sách khoan hồng theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018 chủ yếu dựa vào sự phối hợp giữa Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và các cơ quan có thẩm quyền khác trong việc tiếp nhận đơn, xác minh thông tin và đưa ra quyết định xử lý vụ việc. Bởi vậy, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan; phối hợp hiệu quả giữa cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh và các cơ quan điều tra khác như công an, kiểm sát, hải quan để bảo đảm thu thập đủ bằng chứng và áp dụng chính sách khoan hồng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, tích cực chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giữa các cơ quan trong và ngoài nước để cập nhật các phương thức áp dụng chính sách khoan hồng tiên tiến.

5. Kết luận

Chính sách khoan hồng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh và công bằng nhằm khuyến khích sự hợp tác của doanh nghiệp trong việc tuân thủ và thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật của cơ quan quản lý cạnh tranh thông qua việc nâng cao khả năng phát hiện, điều tra và xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, từ đó, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.

Chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh năm 2018 của Việt Nam đã thể hiện đầy đủ mục tiêu, ý nghĩa và vai trò nhằm giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện, điều tra và xử lý đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm trên cơ sở tự nguyện khai báo của doanh nghiệp về hành vi vi phạm, giống như mục tiêu và ý nghĩa của chính sách khoan hồng mà các nước trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Liên minh châu Âu, Malaysia… đã áp dụng. Tuy nhiên, để chính sách khoan hồng được thực thi hiệu quả trên thực tế, cần phải nỗ lực hơn trong tư duy lập pháp và hành động cụ thể. Tiếp tục rà soát, bổ sung và hướng dẫn chi tiết việc thi hành các quy định về chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh năm 2018, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật để các quy định về chính sách khoan hồng nói riêng và các quy định pháp luật cạnh tranh nói chung sớm được áp dụng hiệu quả trên thực tế./.

Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian để đọc bài viết này. Hy vọng bạn đã có được những thông tin bổ ích. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm nhiều thông tin cũng như cơ hội việc làm tại AGS nhé.

Thông tin khác

Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

Nguồn: https://danchuphapluat.vn/chinh-sach-khoan-hong-trong-luat-canh-tranh-viet-nam-tu-quy-dinh-den-thuc-thi-8230.html
Next Post Previous Post