Hôm nay AGS sẽ giới thiệu cho các bạn độc giả về IFRS 02: Ghi nhận phát
hành cổ phiếu cho nhân viên tại Việt Nam ( một trong những IFRS quan trọng của
Ngôn ngữ kế toán thế giới).
TÓM TẮT:
Bài viết này sẽ chỉ ra những quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS
02 “Giao dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu” trong kế toán giao dịch phát
hành cổ phiếu cho nhân viên và thực trạng kế toán phát hành cổ phiếu cho
nhân viên tại Việt Nam. Bên cạnh đó, bằng việc phân tích những đặc điểm
của giao dịch phát hành cổ phiếu cho nhân viên tại Việt Nam như: chỉ phát
hành cổ phiếu thưởng và quyền chọn mua cổ phiếu, quyền chọn mua cổ phiếu
thường được phát hành không kèm điều kiện, đời sống của quyền chọn ngắn,
bài viết đã khẳng định việc áp dụng IFRS 02 để kế toán hoạt động phát hành
cổ phiếu cho nhân viên tại Việt Nam là hoàn toàn có thể và nên được tiến
hành sớm.
Từ khóa: IFRS 02, phát hành cổ phiếu, nhân viên, phát hành.
1. Sự cần thiết và các yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện IFRS 02 tại Việt Nam
Khi IFRS 02 chưa được ban hành, đang được đem ra để thảo luận, có rất
nhiều ý kiến trái chiều không ủng hộ quan điểm của IFRS 02. Ví dụ như: Khi
công ty phát hành cổ phiếu cho nhân viên thì không bị mất tiền cũng như
tài sản nào, do vậy công ty không nên ghi nhận chi phí khi phát hành. Nếu
ghi nhận chi phí thù lao khi phát hành sẽ làm EPS của công ty giảm mạnh do
lợi nhuận của doanh nghiệp giảm và số cổ phần hiện hành sẽ tăng lên. Hay
như lo ngại rằng nếu doanh nghiệp bị yêu cầu ghi nhận chi phí khi phát
hành sẽ làm các doanh nghiệp mất động lực, không thực hiện phát hành cổ
phiếu cho đối tác nữa.
Tuy nhiên, đáp lại những lập luận này, Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế đã
phản bác lại như sau: thứ nhất, giao dịch giữa doanh nghiệp và người lao
động đã thực sự xảy ra, người lao động đã cung cấp dịch vụ cho công ty để
đổi lại số cổ phần hoặc quyền chọn mua cổ phần của công ty; thứ hai, đúng
là EPS của công ty sẽ giảm nhưng điều này là phản ánh đúng bản chất của
vấn đề; thứ ba, nếu doanh nghiệp vì bị yêu cầu phải ghi nhận chi phí mà
không tiến hành các kế hoạch phát hành cổ phiếu cho nhân viên, chứng tỏ
yêu cầu ghi nhận của kế toán đã chỉ ra ảnh hưởng kinh tế của hoạt động này
tới doanh nghiệp. Do vậy, IFRS 02 được ban hành và cho tới nay IFRS 02 đã
được đưa vào thực tế trên 13 năm. Theo thống kê của IASB, hiện các chuẩn
mực kế toán quốc tế đang được 97 quốc gia yêu cầu tất cả các doanh nghiệp
áp dụng, 9 quốc gia yêu cầu 1 bộ phận doanh nghiệp phải áp dụng, 25 quốc
gia cho phép doanh nghiệp áp dụng IFRS, chỉ 23 quốc gia không cho phép áp
dụng IFRS và 21 quốc gia không có thị trường chứng khoán.
Như vậy, có thể thấy, IFRS 02 đã được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng
từ lâu. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, để giúp thị trường chứng
khoán thu hút được dòng vốn ngoại, các doanh nghiệp Việt cũng nên lập BCTC
theo IFRS 02 và các chuẩn mực kế toán quốc tế khác để tăng cường tính minh
bạch, thống nhất giữa BCTC Việt Nam và quốc tế.
Khi áp dụng IFRS 02 chắc chắn doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, trong đó
lo ngại lớn nhất liên quan tới việc định giá công cụ vốn. Vì IFRS 02 yêu
cầu doanh nghiệp phải tính toán chi phí thù lao dựa trên giá trị hợp lý
của quyền chọn tại ngày phát hành, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải sử
dụng các mô hình định giá quyền chọn như: mô hình Black-scholes, phương
pháp binominal hay phương pháp MonteCarlo. Do trình độ hạn chế, kế toán
viên không nắm rõ được những kỹ thuật phức tạp này. Hay doanh nghiệp lo
ngại rằng việc định giá này dựa trên rất nhiều giả định phức tạp, mà nếu
chỉ cần giả định sai, chi phí ghi nhận thay đổi là rất lớn,... Tuy nhiên,
với đặc điểm hoạt động phát hành cổ cho nhân viên ở Việt Nam như: chỉ phát
hành cổ phiếu thưởng và quyền chọn mua cổ phiếu, quyền chọn mua cổ phiếu
thường được phát hành không kèm điều kiện, đời sống (thời gian từ lúc
quyền chọn được phát hành tới khi quyền chọn được thực hiện) của quyền
chọn ngắn, thì các rủi ro liên quan tới định giá quyền chọn cũng không
nhiều, doanh nghiệp có thể dễ dàng định giá quyền chọn dễ dàng hơn. Do
vậy, theo ý kiến của tác giả, việc áp dụng IFRS 02 để kế toán hoạt động
phát hành cổ phiếu cho nhân viên là hoàn toàn có thể.
2. Kế toán phát hành cổ phiếu cho nhân viên theo IFRS 02 tại Việt Nam
2.1. Phạm vi của IFRS 02
Chuẩn mực này đưa ra yêu cầu về kế toán các giao dịch trong đó doanh
nghiệp mua hàng hóa, dịch vụ từ đối tác (có thể là nhà cung cấp hoặc nhân
viên) và trả bằng công cụ vốn (cổ phần) của doanh nghiệp mình. Giao dịch
này còn gọi là giao dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu, bao gồm 3 nhóm như
sau:
Nhóm 1: Giao dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu tất toán bằng công cụ vốn
(Equity - settled share-based payment transaction). Trong nhóm giao dịch
này, công ty nhận hàng hóa hoặc dịch vụ và trả bằng công cụ vốn (cổ phiếu
hoặc quyền chọn mua cổ phiếu) của công ty mình.
Nhóm 2: Giao dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu tất toán bằng tiền (Cash -
settled share-based payment transaction). Trong nhóm giao dich này, khi
nhận hàng hóa, dịch vụ, giá trị khoản nợ của công ty với người cung cấp
hàng hóa, dịch vụ được xác định dựa trên giá các công cụ vốn của công ty.
Nhóm 3: Giao dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu có thể lựa chọn tất toán
bằng tiền hoặc công cụ vốn). Tương tự như 2 nhóm giao dịch trên, nhưng
việc thanh toán có thể thực hiện bằng tiền hoặc công cụ vốn. Như vậy, IFRS
02 không chỉ điều chỉnh những giao dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu giữa
doanh nghiệp và nhân viên, mà còn có thể là giao dịch giữa doanh nghiệp
với đối tác khác.
2.2. Nội dung của IFRS 02 về kế toán phát hành cổ phiếu cho nhân viên
Do phát hành cổ phiếu cho nhân viên tại Việt Nam chủ yếu được tiến hành
dưới hình thức quyền chọn và cổ phiếu thưởng (là các giao dịch nhóm 1) cho
nên bài viết cũng tập trung vào các quy định của IFRS 02 về kế toán giao
dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu và tất toán bằng công cụ vốn. Cụ thể như
sau:
- Về ghi nhận:
Công ty phải ghi nhận hàng hóa hoặc dịch vụ nhận được từ giao dịch thanh
toán dựa trên cổ phiếu khi công ty nhận được hàng hóa hay dịch vụ đó. Hàng
hóa hoặc dịch vụ nhận được trong giao dịch thanh toán dựa trên cổ phiếu
phải được ghi nhận là chi phí của doanh nghiệp, trừ khi chúng đủ tiêu
chuẩn ghi nhận là tài sản. Nếu hàng hóa dịch vụ nhận được trong trường hợp
giao dịch được tất toán bằng công cụ vốn, công ty phải ghi nhận một khoản
tăng tương ứng trong vốn chủ sở hữu.
- Về đo lường:
Công ty phải sử dụng giá trị hợp lý của hàng hóa, dịch vụ nhận được để ghi
nhận hàng hóa, dịch vụ nhận về, đối ứng với sự gia tăng trong vốn chủ sở
hữu. Nếu giá trị của hàng hóa, dịch vụ nhận được không được đo lường một
cách đáng tin cậy, doanh nghiệp ghi nhận theo giá trị hợp lý của công cụ
vốn được phát hành. Khi cổ phiếu, quyền chọn hoặc các công cụ vốn khác
được phát hành cho nhân viên như một phần của đãi ngộ, thông thường sẽ
không thể xác định được giá trị hợp lý của dịch vụ nhận về. Vì vậy, công
ty sẽ tham chiếu tới giá trị hợp lý của công cụ vốn được phát hành. GTHL
của các công cụ vốn này được xác định tại ngày phát hành và không thay đổi
trong suốt thời gian chuyển quyền sau đó.
- Về phân bổ chi phí khi nhận dịch vụ từ đối tác (ở đây là nhân viên):
Khi công cụ vốn được phát hành, chúng có thể được trao quyền ngay lập tức,
nhưng thông thường là bên đối tác sẽ phải hoàn thành một số điều kiện
trước khi được trao quyền. Ví dụ như nhân viên phải làm việc đủ 3 năm
trước khi được trao quyền. Do vậy sẽ dẫn tới 2 trường hợp: Nếu công cụ vốn
đã phát hành được trao quyền ngay mà không có điều kiện gì thì coi như
dịch vụ đã hoàn thành. Doanh nghiệp phải ghi nhận toàn bộ chi phí phát
sinh đối ứng với sự gia tăng vốn chủ sở hữu tại ngày công cụ vốn được phát
hành. Nếu công cụ vốn đã phát hành không được trao quyền cho đến hết 1
thời gian xác định thì doanh nghiệp phải coi như dịch vụ được thực hiện
trong suốt thời kỳ trao quyền, từ đó ước lượng chi phí lương tương ứng. Ví
dụ: nếu một nhân viên chỉ mới cung cấp dịch vụ trong khoảng thời gian là
1/3 kỳ chuyển quyền thì chi phí lương được ghi nhận là 1/3 lượng quyền
chọn ước tính được trao quyền. Tại ngày trao quyền, công ty phải điều
chỉnh lại ước lượng bằng với số công cụ vốn thực tế được trao quyền. Sau
ngày trao quyền, công ty không điều chỉnh gì thêm liên quan tới tổng vốn
chủ sở hữu nhưng điều này không ngăn cản việc chuyển dịch giữa các thành
phần trong vốn chủ sở hữu.
2.3. Quy trình cơ bản để phát hành quyền chọn mua cổ phần cho nhân viên
Bước 1: Công ty phát hành quyền
chọn cho nhân viên tại ngày phát hành (grant date). Ngày phát hành là ngày
mà công ty và nhân viên thuộc đối tượng được công ty phát hành cùng đồng ý
những thỏa thuận liên quan tới giao dịch này (IFRS 02). Tại ngày phát
hành, nhân viên thường chưa nhận được quyền chọn mua cổ phần ngay. Họ chỉ
nhận được quyền chọn sau khi đã hoàn thành một số điều kiện nhất định gọi
là điều kiện trao quyền, ví dụ như nhân viên phải làm việc cho công ty
trong 3 năm tiếp theo.
Bước 2: Công ty trao quyền chọn cho
nhân viên khi kì chuyển quyền kết thúc. Tại ngày trao quyền (vesting date)
nhân viên sẽ chính thức được trao quyền nếu hoàn thành các điều kiện trao
quyền do công ty đưa ra.
Bước 3: Nhân viên lựa chọn thực
hiện hay không thực hiện quyền chọn mua cổ phần trong kỳ thực hiện quyền
(exercising period). Sau ngày trao quyền, nhân viên có thể thực hiện quyền
của mình để mua cổ phiếu trong khoảng thời gian giới hạn đã được xác định
trước. Thông thường trên thế giới, quyền chọn thường được phát hành kèm
với một số điều kiện nhất định và kỳ chuyển quyền, vì vậy thời gian tương
đối dài (trên 1 năm). Tuy nhiên, ở Việt Nam, quyền chọn thường được phát
hành cho nhân viên mà không đi kèm điều kiện, công ty phát hành đồng thời
trao quyền chọn luôn cho nhân viên, do vậy thời gian từ lúc công ty ra
thông báo phát hành quyền chọn tới lúc nhân viên thực hiện xong quyền chọn
mua cổ phần thường ngắn (dưới 1 năm).
Một đặc điểm nữa của quyền chọn ở Việt Nam
là giá phát hành thường bằng mệnh giá hoặc cao hơn mệnh giá nhưng thấp hơn
giá trị thị trường rất nhiều. Như trong năm 2019, có 73 công ty niêm yết
công bố và đã phát hành cổ phiếu cho nhân viên thì 23 công ty phát hành cổ
phiếu thưởng (giá phát hành là 0 đồng), 35 công ty phát hành bằng mệnh giá
(10.000 đồng), chỉ có 15 công ty phát hành cao hơn mệnh giá nhưng thấp hơn
giá trị thị trường. Công ty phát hành quyền chọn với giá cao nhất trong 73
công ty này là TLG phát hành với giá 30.000 đồng/cổ phiếu, tuy nhiên giá
thị trường của cổ phiếu này trong khoảng thời gian thực hiện quyền luôn
trên 90.000 đồng/cổ phiếu.
*Thông tin khác
Nếu bạn muốn tìm thêm thông tin liên quan đến bài đăng này hoặc thông tin
công ty chúng tôi, vui lòng xem các bài đăng và trang bên dưới. Công ty Kế
toán AGS Việt Nam hy vọng bạn có thể dành nhiều thời gian hơn trên trang web
của chúng tôi và có thêm nhiều thông tin hữu ích.
Nguồn:https://tapchicongthuong.vn/ifrs-02-ve-ghi-nhan-phat-hanh-co-phieu-cho-nhan-vien-105768.htm