Công ty Kế toán AGS Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực tư vấn và cung cấp dịch vụ
Kế toán, Kiểm toán, Thuế, Tư vấn quản lý, chuyển đổi và tái cơ cấu doanh
nghiệp.
Trong bài viết này công ty AGS sẽ chia sẻ về chủ đề Chính sách ưu
đãi thuế tại Việt Nam. Bài viết dành cho các kế toán viên đang phụ trách về phần
thuế, người lao động đang muốn tìm hiểu về cách tính thuế. AGS muốn chia sẻ về
chủ đề này bởi vì chính sách ưu đãi thuế được áp dụng khá phổ biến trên thế
giới.
Cùng tìm hiểu kĩ hơn về chủ đề này qua bài viết dưới đây nhé.
Khi nghiên cứu ban hành, triển khai chính sách ưu đãi thuế cũng phải có chọn lọc, đảm bảo minh bạch, đơn giản, phù hợp với nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, cần có các giải pháp đồng bộ khác để xây dựng một môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, đảm bảo sự tiếp cận thuận lợi, bình đẳng của các nhà đầu tư đối với các cơ hội kinh doanh cũng như với lợi ích do chính sách ưu đãi thuế mang lại.
1. Tổng quan về chính sách ưu đãi thuế
Chính sách ưu đãi thuế được áp dụng khá phổ biến trên thế giới. Ưu đãi thuế được hiểu là việc áp dụng các chính sách thuế có “sự khác biệt” so với các quy định chung của pháp luật thuế nhằm tạo ra sự đối xử ưu đãi hơn cho một nhóm đối tượng người nộp thuế cụ thể. Để một chính sách thuế được xem là một biện pháp “ưu đãi thuế”, chính sách thuế đó phải chứa đựng 3 yếu tố:
- (i) Sự khác biệt so với các quy định về thuế được áp dụng chung;
- (ii) Sự khác biệt tạo ra những ưu đãi nhất định cho người nộp thuế và
- (iii) Để được hưởng lợi, đối tượng nộp thuế phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định (ví dụ, thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn, chứng từ...).
Ưu đãi thuế có nhiều hình thức khác nhau và có thể phân loại theo nhiều cách
thức khác nhau như:
- Dựa theo loại hình ưu đãi;
- Dựa theo các yếu tố đầu vào (dựa vào chi phí) và đầu ra (dựa vào lợi nhuận);
- Dựa theo ưu đãi về thuế trực thu và thuế gián thu. Khi phân loại theo loại hình ưu đãi, các biện pháp ưu đãi thuế chủ yếu bao gồm:
- Ưu đãi về giảm thuế suất;
- Miễn, giảm thuế thu nhập có thời hạn;
- Giảm trừ thu nhập chịu thuế theo đầu tư hoặc giảm trừ nghĩa vụ thuế phải nộp theo đầu tư;
- Ưu đãi về miễn, giảm thuế gián thu (ví dụ, miễn, giảm thuế nhập khẩu);
- Cho phép tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế một tỷ lệ cao hơn số thực chi;
- Hoàn thuế đối với lợi nhuận tái đầu tư hay áp dụng cơ chế khấu hao nhanh.
Ưu đãi thuế
được các nước áp dụng để hướng đến nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm: Thu
hút nguồn vốn từ bên ngoài, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên,
qua đó, tạo ra các động lực cho tăng trưởng kinh tế; khuyến khích triển
vùng; khuyến khích tạo việc làm; Thúc đẩy xuất khẩu, gia tăng hàm lượng nội
địa của sản phẩm sản xuất trong nước; Phát triển khoa học và công nghệ
(KH&CN); Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hay để thúc đẩy bảo
vệ môi trường, sản xuất và tiêu dùng xanh.
Ưu điểm, nhược điểm
của các hình thức ưu đãi thuế trong việc hướng đến các mục tiêu đề ra là rất
khác nhau. Ưu đãi về thuế suất và về miễn, giảm thuế có thời hạn có ưu điểm
là đơn giản, dễ quản lý. Tuy nhiên, hạn chế của các biện pháp ưu đãi này là
chi phí ngân sách cao và số thu ngân sách giảm trong nhiều trường hợp là
không dự tính được và độc lập với lợi ích mà dự án đầu tư có thể mang lại
(IMF, 2015; OECD, 2018). Khi áp dụng các biện pháp ưu đãi này, quy mô ưu đãi
các nhà đầu tư được hưởng (thể hiện bằng số tiền thuế được miễn, giảm) phụ
thuộc vào mức độ lợi nhuận mà dự án đầu tư mang lại (dự án đầu tư có tỷ lệ
lãi càng cao, nhà đầu tư càng được hưởng lợi từ chính sách miễn, giảm thuế),
song lợi nhuận của các dự án đầu tư lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác và
chính phủ cũng thường không có đủ thông tin để đánh giá khả năng sinh lợi
của dự án đầu tư ngay từ đầu. Nhà đầu tư cũng có thể chấm dứt dự án đầu tư
khi hết thời hạn ưu đãi và thành lập dự án mới để được hưởng kỳ ưu đãi về
miễn, giảm thuế mới.
Biện pháp hoàn thuế đối với lợi nhuận tái
đầu tư có ưu điểm là dễ quản lý nhưng lại gây ra sự bị động của chính phủ
trong cân đối tìm nguồn để hoàn lại. So với các biện pháp ưu đãi khác, các
hình thức ưu đãi thuế gắn với quy mô vốn đầu tư như giảm trừ nghĩa vụ thuế
theo đầu tư, giảm trừ thu nhập chịu thuế theo đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ
với quy mô vốn doanh nghiệp (DN) thực tế đầu tư. Mức độ ưu đãi tỷ lệ thuận
với số vốn mà DN thực tế đầu tư. Vì thế, chính phủ dự tính được ngay từ đầu
số giảm thu ngân sách do áp dụng ưu đãi, qua đó, có sự nhìn nhận đầy đủ hơn
về chi phí của việc thực hiện. Tuy nhiên, áp dụng các hình thức ưu đãi này
có nhược điểm là nhà đầu tư sẽ có xu hướng lựa chọn tài sản có vòng đời ngắn
để tiếp tục hưởng ưu đãi khi thay thế tài sản.
Hiệu quả của chính sách ưu đãi trong việc hướng đến các mục tiêu đề ra
phụ thuộc vào nhiều nhân tố, bao gồm cả các nhân tố bên trong và những nhân
tố bên ngoài. Các nhân tố bên trong bao gồm: bối cảnh kinh tế, chính trị
trong nước; đặc điểm chung của hệ thống thuế; cách thức hệ thống chính sách
ưu đãi được thiết kế; môi trường kinh doanh hay năng lực thi, quản lý của cơ
quan thuế. Trong khi đó, môi trường kinh tế quốc tế, mức độ hội nhập của nền
kinh tế trong nước, vai trò của các hiệp định thuế, hợp tác quốc tế về thuế
là những nhân tố bên ngoài cần được quan tâm đến khi xây dựng chính sách ưu
đãi thuế.
Lý luận cũng như thực tiễn ở nhiều nước cho thấy, trong
nhiều trường hợp, sử dụng chính sách ưu đãi thuế làm tăng tính hấp dẫn của
môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút thêm nguồn vốn, đặc biệt là
nguồn vốn từ bên ngoài. Qua đó, tạo thêm việc làm, thúc đẩy kinh tế phát
triển và tạo ra “hiệu ứng lan tỏa” khác cho nền kinh tế. Tuy nhiên, áp dụng
chính sách này cũng gây ra những chi phí cho chính phủ, bao gồm: làm giảm
nguồn thu ngân sách; tăng chi phí quản lý hành chính thuế; gây ra sự méo mó
quá trình phân bổ nguồn lực trong xã hội và tạo ra các cơ hội cho tham nhũng
nếu không quản lý hiệu quả. Chi phí ngân sách không những chỉ là phần ngân
sách bị giảm trực tiếp mà còn cả số giảm thu ngân sách từ xói mòn cơ sở thuế
từ việc khai thác các “khoảng trống” của chính sách thuế (ví dụ sử dụng các
thủ thuật để chuyển lợi nhuận từ DN không được hưởng ưu đãi đến DN được
hưởng ưu đãi).
Bên cạnh đó, áp dụng ưu đãi thuế có thể dẫn tới cạnh tranh thuế quốc tế. Một
quốc gia áp dụng chính sách ưu đãi thuế có thể kéo theo quốc gia khác áp
dụng chính sách tương tự để cạnh tranh thu hút vốn đầu tư. Khi xảy ra cạnh
tranh thuế, mức độ hấp dẫn trong khuyến khích đầu tư ở các quốc gia không
thay đổi nhưng các quốc gia tham gia cạnh tranh thuế đều bị giảm thu ngân
sách do sự xói mòn về cơ sở thuế. Ngoài ra, khi không được thiết kế phù hợp,
áp dụng ưu đãi thuế có thể dẫn đến sự “dư thừa” chính sách không cần thiết,
gây lãng phí nguồn lực ngân sách. Có những trường hợp nhà đầu tư vẫn đưa ra
quyết định đầu tư mà không cần phải có chính sách ưu đãi thuế (James,
2014).
2. Chính sách ưu đãi thuế ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra
Ưu đãi thuế là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách
thuế của Việt Nam kể từ khi thực hiện cải cách và mở cửa nền kinh tế đến
nay. Các hình thức ưu đãi thuế ở Việt Nam khá đa dạng, bao gồm ưu đãi về
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), ưu đãi về thời gian miễn thuế,
giảm thuế TNDN, ưu đãi về giảm thuế thu nhập cá nhân (TNCN), về miễn thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu hay các hình thức ưu đãi qua áp dụng cơ chế khấu
hao nhanh hay cơ chế trích lập Quỹ Khoa học và công nghệ tại DN...
Cùng
với các biện pháp kinh tế khác, việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế thời
gian qua đã góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc
đẩy DN mở rộng sản xuất. Việt Nam đã trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối
với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc áp dụng ưu đãi thuế đã
có nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, đó là: (i) Thu hút
thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế, góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm
đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, lĩnh vực, cơ cấu vùng miền; (iii)
Gia tăng xuất khẩu và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang công
nghiệp chế biến, chế tạo; (v) Tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong nền kinh tế; (v) Thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
Tuy
nhiên, thực tiễn thực hiện các chính sách ưu đãi thuế ở Việt Nam thời gian
qua cũng chỉ ra một số vấn đề cần phải sớm được nhận diện, nhất là khi xem
xét một cách đầy đủ hiệu quả của các chính sách này trong mối tương quan với
các chi phí gián tiếp và trực tiếp mà việc áp dụng ưu đãi gây ra. So với
nhiều quốc gia trong khu vực, mức độ ưu đãi trong hệ thống chính sách thuế
của Việt Nam là tương đối cao.
Cùng với đó, danh mục ngành, nghề,
lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi thuế cũng khá rộng. Thực tiễn này vô
hình trung đã làm giảm vai trò “định hướng” của chính sách ưu đãi thuế trong
việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ, hiện nay,
tất cả các khu kinh tế (KKT) đều áp dụng chung một cơ chế ưu đãi như nhau mà
không gắn với đặc điểm và mức độ phát triển về điều kiện kinh tế - xã hội,
hạ tầng trong từng KKT.
Phạm vi ưu đãi rộng đồng nghĩa với việc
chi phí của việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế cao, nhất là đối với
nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN). Chỉ tính riêng năm 2016, theo số liệu
được công bố, tổng số tiền mà NSNN đã ưu đãi cho các DN là trên 64.278 tỷ
đồng, tương đương khoảng 5,84% tổng thu NSNN năm 2016, trong đó ưu đãi về
thuế chiếm 81,8% (Như Bình & Đức Sơn (2017). Trong tổng số giảm thu NSNN
do ưu đãi thuế, số giảm thu do ưu đãi thuế TNDN chiếm tỷ trọng lớn nhất
(89%), tiếp đến là ưu đãi về thuế nhập khẩu (8,9%).
Thời gian
qua, Việt Nam thực hiện nhiều chính sách ưu đãi thuế với mục tiêu để thúc
đẩy phát triển một số ngành, lĩnh vực và địa bàn ưu tiên tuy nhiên có thể
thấy hiệu quả mang lại không đạt như kỳ vọng. Các địa bàn, khu vực có trình
độ phát triển thấp vẫn gặp nhiều khó khăn trong thu hút đầu tư do những hạn
chế về vị trí địa lý cũng như kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực.
Tỷ
trọng thu hút đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên (ví dụ như lĩnh vực
nông nghiệp, phát triển khoa học và công nghệ), vẫn còn thấp. Các doanh
nghiệp FDI đã mang lại những lợi ích lớn cho Việt Nam trong đóng góp cho
tăng trưởng, xuất khẩu và tạo việc làm nhưng mối liên kết giữa doanh nghiệp
FDI với nền kinh tế Việt Nam, tạo ra sự lan tỏa cho các doanh nghiệp trong
nước cũng còn những điểm hạn chế.
Hệ thống chính sách ưu đãi thuế
của Việt Nam chủ yếu dựa vào các loại hình ưu đãi dựa trên lợi nhuận như ưu
đãi về giảm mức thuế suất, áp dụng thời gian miễn thuế, giảm thuế TNDN. Đây
là các loại hình ưu đãi được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng kém hiệu quả nhất
và có chi phí cao nhất. Các hình thức ưu đãi thuế khác như giảm trừ số thuế
phải nộp, giảm trừ thu nhập chịu thuế theo đầu tư hiện vẫn chưa được áp dụng
tại Việt Nam. Bên cạnh đó, mặc dù theo quy định, trong hệ thống chính sách
ưu đãi thuế của Việt Nam hiện nay không có sự phân biệt theo loại hình doanh
nghiệp nhưng trên thực tế trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp FDI được
hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách ưu đãi thuế, trong khi đó mức độ tiếp
cận của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Trong tổng số số thu NSNN giảm
do thực hiện ưu đãi thuế TNDN năm 2016, số giảm thu NSNN từ thực hiện ưu đãi
thuế TNDN cho các doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 75,5%.
So với
nhiều quốc gia trong khu vực, mức độ ưu đãi trong hệ thống chính sách thuế
của Việt Nam là tương đối cao. Cùng với đó, danh mục ngành, nghề, lĩnh vực
và địa bàn được hưởng ưu đãi thuế khá rộng. Việc áp dụng các chính sách ưu
đãi thuế thời gian qua đã góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất.
Việc bãi bỏ
các biện pháp ưu đãi về thuế quy định trong các luật chuyên ngành để quy
định vào trong các luật thuế là bước đi đúng nhưng khi chuyển tập trung vào
các luật thuế cơ bản lại là một phép cộng mà thiếu đi sự đánh giá để sàng
lọc loại bỏ các biện pháp ưu đãi thuế không hiệu quả, thậm chí trong một số
trường hợp còn bị mở rộng hơn do áp dụng nguyên tắc cho phép áp dụng các quy
định ưu đãi có lợi nhất, ưu đãi cao nhất cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó,
yêu cầu rà soát, hợp lý hóa các chính sách ưu đãi, không lồng ghép chính
sách xã hội vào chính sách thuế tuy được đặt ra khá sớm nhưng hiệu quả thực
hiện chưa cao.
3. Định hướng hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế ở Việt Nam
Việt Nam cần nghiên cứu toàn diện, có những điều chỉnh cần thiết để chính
sách ưu đãi thuế tiếp tục phát huy hiệu quả. Yêu cầu rà soát, sửa đổi chính
sách ưu đãi thuế gần đây cũng được đặt ra trong các văn kiện Nghị quyết của
Đảng, Quốc hội như Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị
về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài
chính quốc gia an toàn, bền vững và Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày
10/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia 2016 - 2020. Để
đảm bảo hiệu quả, việc xây dựng và áp dụng chính sách ưu đãi thuế phải có
chọn lọc, có trọng điểm, minh bạch và đơn giản dựa trên theo nguyên tắc thị
trường và phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, cần quan tâm đến một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất,
thực hiện rà soát, đánh giá tổng thể các chính sách ưu đãi thuế để có các
điều chỉnh, sửa đổi phù hợp. Cụ thể, nghiên cứu giảm dần sự phụ thuộc quá
lớn vào việc áp dụng hình thức ưu đãi về miễn, giảm thuế TNDN có thời hạn để
chuyển sang áp dụng hình thức ưu đãi thuế khác, hiệu quả hơn, ví dụ, cơ chế
ưu đãi qua giảm trừ nghĩa vụ thuế phải nộp hay giảm trừ thu nhập chịu thuế
theo đầu tư. Mức giảm trừ có thể là cho toàn bộ hay một phần so với số vốn
nhà đầu tư bỏ ra, tùy theo mức độ ưu tiên của dự án đầu tư. Ngoài ra, Việt
Nam có thể nghiên cứu áp dụng phương thức giảm trừ bổ sung, qua đó cho phép
tính vào chi phí được trừ ở mức cao hơn số mà các DN đã thực chi trong một
số hoạt động mà nhà nước cần khuyến khích. Ví dụ: Đối với các khoản chi cho
hoạt động khoa học và công nghệ hay cho ứng dụng công nghệ cao, công nghệ
thông tin.
Đồng thời, thực hiện rà soát, hợp lý hóa các chính
sách ưu đãi về thuế gián thu. Cụ thể, thực hiện đánh giá toàn diện xác quy
định về miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu 2016. Trên cơ sở đó, có lộ trình để thu hẹp danh mục các nhóm hàng hóa
được miễn thuế, đảm bảo sự minh bạch về điều kiện để được hưởng ưu đãi.
Thứ
hai, rà soát để thu hẹp danh mục ngành, nghề và địa bàn được hưởng ưu đãi
thuế, đảm bảo chính sách ưu đãi thuế được thực hiện có chọn lọc, gắn với các
chủ trương, định hướng của Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội
nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số chủ
trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế
và Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tái
cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Việc lựa chọn các ngành, nghề cần ưu
đãi phải được cân nhắc trên cơ sở phân tích về lợi ích - chi phí một cách
cẩn trọng. Chính sách ưu đãi thuế phải hướng vào các ngành, nghề có khả năng
tạo ra các “ngoại ứng tích cực cho nền kinh tế”, tạo điều kiện cho các DN
Việt Nam đổi mới, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và
ngoài nước, tập trung vào các ngành, nghề mà Việt Nam có thể phát huy lợi
thế so sánh, có dư địa để phát triển.
Cùng với đó, cần nghiên cứu
lộ trình phù hợp, từng bước giảm dần ưu đãi đầu tư dựa theo địa bàn để
chuyển sang ưu đãi dựa theo ngành, nghề. Đối với các khu kinh tế (KKT), cần
xem xét đến tính chất, đặc điểm và mục tiêu riêng của từng KKT để có những
chính sách ưu đãi riêng, không áp dụng chung cùng một mặt bằng chính sách ưu
đãi thuế. Đồng thời, quy định cụ thể, rõ ràng các tiêu chí để thành lập các
KKT, khu công nghiệp và khu chế xuất để hạn chế sự dàn trải trong áp dụng
chính sách ưu đãi thuế. Về nguyên tắc, ưu đãi dựa theo địa bàn nên chỉ áp
dụng đối một số khu vực nhất định (ví dụ như các các vùng có lợi thế phát
triển) để tạo động lực lan tỏa cho tăng trưởng.
Cùng với việc
hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, cần phải có các giải pháp đồng bộ khác ở
tầm vĩ mô và vi mô để đảm bảo xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh hấp
dẫn, minh bạch và đảm bảo sự tiếp cận dễ dàng, bình đẳng với chi phí hợp lý
của nhà đầu tư đối với các cơ hội kinh doanh cũng như trong việc thụ hưởng
lợi ích do chính sách ưu đãi thuế mang lại.
Thứ ba, hoàn thiện
khuôn khổ đánh giá hiệu quả của ưu đãi thuế, xây dựng Báo cáo chi tiêu thuế;
Thực hiện phân tích chi phí - lợi ích của các chính sách ưu đãi thuế một
cách thận trọng và mang tính dài hạn trước khi ban hành và trong quá trình
thực hiện, bao gồm cả các ảnh hưởng về khía cạnh xã hội. Để thực hiện được
yêu cầu này, cần thiết lập cơ chế báo cáo để cơ quan thuế có cơ sở thu thập
thông tin và dữ liệu liên quan đến việc thực hiện các chính sách ưu đãi
thuế, bao gồm các thông tin liên quan đến số dự án được hưởng ưu đãi thuế,
số giảm thu NSNN do ưu đãi thuế, đóng góp của dự án được hưởng ưu đãi đối
với nền kinh tế trên các khía cạnh như tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, kết
quả chuyển giao công nghệ. DN được hưởng ưu đãi phải kê khai thuế đầy đủ, kể
cả trong trường hợp không phát sinh nghĩa vụ thuế phải nộp (do được hưởng ưu
đãi).
Thứ tư, tiếp tục thực hiện tổng thể việc cải cách hệ thống
thuế, xây dựng một hệ thống thuế “thân thiện với tăng trưởng” gắn với các
mục tiêu, định hướng xác định trong Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị
và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội. Việc cải cách trong từng chính
sách thuế cần được thực hiện theo nguyên tắc duy trì một hệ thống chính sách
thuế có tính cạnh tranh, mức thuế suất hợp lý, cơ sở tính thuế rộng, đảm bảo
tính hiệu quả và công bằng; Kiên định thực hiện định hướng tách chính sách
xã hội ra khỏi chính sách thuế để đảm bảo tính trung lập, tính đơn giản của
hệ thống chính sách thuế.
Đồng thời, đổi mới toàn diện hoạt động
quản lý thuế, hướng đến quản lý thuế điện tử dựa trên 3 nền tảng cơ bản: (i)
Tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, minh bạch, phù hợp
với thông lệ quốc tế; (ii) Đẩy mạnh quản lý dựa trên rủi ro trên cơ sở đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các khâu của quy trình quản
lý thuế và xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về người thuế đầy đủ, toàn
diện không chỉ liên quan đến các thông tin do ngành Thuế quản lý mà còn cả
các thông tin khác có liên quan từ bên thứ ba; (iii) Xây dựng bộ máy quản lý
thuế gọn nhẹ, hiệu quả và hiệu lực. Cùng với đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về
thuế, hình thành các cơ chế để chia sẻ thông tin về người nộp thuế, về các
hiệp định thuế và chính sách thuế với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới để tăng cường hiệu quả việc xử lý các vấn đề về thuế phát sinh, bao gồm
cả những vấn đề liên quan đến chính sách ưu đãi thuế.
Thứ năm, đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh. Cùng với việc hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, cần có
các giải pháp đồng bộ khác ở tầm vĩ mô và vi mô để đảm bảo xây dựng cho được
một môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, minh bạch và đảm bảo sự tiếp cận
dễ dàng, bình đẳng với chi phí hợp lý của các nhà đầu tư đối với các cơ hội
kinh doanh cũng như trong việc thụ hưởng các lợi ích do chính sách ưu đãi
thuế mang lại giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian để đọc bài viết này. Hy vọng bạn đã có được những thông tin bổ ích. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm nhiều thông tin cũng như cơ hội việc làm tại AGS nhé.
Thông tin khác
Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn
Nguồn: https://tapchitaichinh.vn/chinh-sach-uu-dai-thue-tai-viet-namnhung-van-de-dat-ra-va-khuyen-nghi.html