Bàn về quy định cấm xuất khẩu, bảo vệ giữ gìn di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong Luật Di sản văn hóa

"Bảo vật quốc gia" từ lâu đã được xem là di sản văn hóa, thể hiện rõ nét và sinh động nhất tính kế thừa của dân tộc Việt Nam trong dòng chảy lịch sử hàng nghìn năm. Vì lẽ đó, nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn bảo vật quốc gia được Chính phủ và các cấp Đảng ủy đặt sự quan tâm to lớn, hàng loạt các chính sách và quy định pháp luật nghiêm ngặt, chặt chẽ được ban hành nhằm bảo vệ tính toàn vẹn và giá trị nguyên gốc của các bảo vật. Qua bài viết dưới đây, AGS sẽ làm rõ khái niệm cơ bản, các quy định pháp luật về cấm xuất khẩu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, từ đó chỉ ra thực trạng và các chế tài đối với hành vi vi phạm.

1. Khái quát về quyền sở hữu, xuất khẩu di vật, cổ vật

Theo quy định tại Luật di sản văn hóa năm 2024 thì “di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học” (Điều 6);  “Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên” (Điều 7) còn “Bảo vật quốc gia là di vật, cổ vật có giá trị đặc biệt quý hiếm, tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học” (Điều 8). 

Đồng thời theo quy định của Luật thương mại Việt Nam 2005, xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng. Như vậy, xuất khẩu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là việc đưa các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia này ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.

Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi năm 2009) và một số nghị định như Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa; Nghị định số 088/2002/NĐ-CP ngày 07/11/2002 về quản lý xuất nhập khẩu sản phẩm văn hóa không nhằm mục đích kinh doanh. Ngoài ra, một số thông tư về bảo vệ di tích, cổ vật đã được ban hành như Thông tư số 07/2004/TT-BVHTT ngày 19/02/2004 của Bộ văn hóa thể thao và du lịch quy định trình tự, thủ tục xét duyệt di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Thông tư số 28/2014/TT-BVHTTDL quy định về quản lý hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thuộc diện quản lý chuyên ngành văn hóa của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Theo quy định của pháp luật, di vật, cổ vật không thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội, khi xuất khẩu phải có giấy phép đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài do Bộ trưởng Bộ văn hóa, Thể thao và du lịch cấp theo các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa. Hiện nay, việc quản lý hoạt động xuất khẩu di vật, cổ vật còn gặp nhiều hạn chế vì sự thiếu hụt của những quy định pháp luật; nhận thức chưa đầy đủ của người dân, chính quyền các cấp về ý nghĩa và giá trị của các di vật, cổ vật; hạn chế về trình độ chuyên môn, năng lực kiểm tra cổ vật của các cán bộ cơ sở và cán bộ hải quan cửa khẩu; chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia chung để kết nối giữa các đơn vị quản lý văn hóa, cảnh sát và hải quan để quản lý cũng như thông báo kịp thời khi có di vật, cổ vật bị đánh cắp đưa ra nước ngoài…

2. Quy định của Luật Di sản văn hóa về xuất khẩu di vật, cổ vật

Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2024 gồm 9 chương, 102 điều, tăng 2 chương và 29 điều so với luật hiện hành. Trên cơ sở kế thừa những nội dung còn phù hợp theo Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật đã đưa ra nhiều quy định liên quan đến việc bảo vệ di sản văn hóa, trong đó có các quy định cấm xuất khẩu di vật, cổ vật nhằm bảo vệ và giữ gìn di sản văn hóa của quốc gia; cấm kinh doanh, mua bán các di vật, cổ vật nhằm tránh tình trạng mất mát di sản văn hóa.

Thứ nhất, Luật Di sản văn hóa năm 2024 quy định rõ việc cấm xuất khẩu những di vật, cổ vật thuộc danh mục bảo vệ của Nhà nước. Điều này nhằm bảo vệ các giá trị văn hóa đặc sắc, đảm bảo sự kế thừa và phát triển di sản văn hóa. Nhà nước sẽ lập danh mục các di vật, cổ vật cần được bảo vệ, trong đó xác định rõ các đối tượng không được xuất khẩu. Việc lập danh mục này sẽ dựa trên các tiêu chí như độ quý hiếm, giá trị lịch sử, văn hóa. Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng quy định rõ quyền sở hữu, quyền khác đối với di sản văn hóa, tạo cơ sở để xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu, chủ thể di sản trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản; quy định di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước để gia tăng giá trị của di sản, chỉ cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư; cấm kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ vật nhằm tránh mất mát di sản văn hóa ra nước ngoài. Đồng thời, quy định các biện pháp quản lý hiệu quả như: Di vật, cổ vật thuộc sở hữu toàn dân phải được quản lý trong các bảo tàng công lập, di tích và các cơ quan, tổ chức Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thích hợp; khuyến khích các tổ chức, cá nhân sưu tầm và trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; quy định hoạt động kinh doanh giám định di vật, cổ vật nhằm ngăn chặn kinh doanh, mua bán trái phép di vật, cổ vật và làm mất mát di sản văn hóa.

Thứ hai, Luật cũng nêu rõ các thủ tục cần thiết để quản lý di vật, cổ vật. Nếu phát hiện di vật nào có giá trị cần bảo vệ, cơ quan chức năng sẽ triển khai các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa việc xuất khẩu trái phép. Tuy nhiên, Luật cũng quy định di vật, cổ vật thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước để gia tăng giá trị của di sản. Luật di sản văn hóa năm 2024 quy định rõ quyền sở hữu, quyền khác đối với di sản văn hóa, tạo cơ sở để xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu, chủ thể di sản trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản; quy định di vật, cổ vật thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước để gia tăng giá trị của di sản, chỉ cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư; cấm kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ vật nhằm tránh mất mát di sản văn hóa ra nước ngoài. Đồng thời, quy định các biện pháp quản lý hiệu quả như: Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân phải được quản lý trong các bảo tàng công lập, di tích và các cơ quan, tổ chức Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thích hợp; khuyến khích các tổ chức, cá nhân sưu tầm và trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; quy định hoạt động kinh doanh giám định di vật, cổ vật nhằm ngăn chặn kinh doanh, mua bán trái phép di vật, cổ vật và làm mất mát di sản văn hóa.

Thứ ba, các quy định về xử phạt vi phạm cũng rất quan trọng. Những tổ chức hoặc cá nhân có hành vi xuất khẩu di vật, cổ vật trái phép sẽ phải chịu các hình thức xử phạt nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, Luật di sản văn hóa đề cập đến việc tham gia vào các công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa, phối hợp với các quốc gia khác trong việc ngăn chặn tình trạng buôn bán trái phép di vật, cổ vật; đồng thời áp dụng những chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu đối với các cổ vật có giá trị để bào tồn và phát huy văn hóa dân tộc.

3. Thực trạng bảo vệ bảo vật quốc gia

3.1. Các sự cố nghiêm trọng đã xảy ra gần đây

a. Cháy tại di tích quốc gia chùa Phổ Quang

Theo báo cáo của UBND xã Xuân Lũng (huyện Lâm Thao), vào khoảng 9h45 ngày 23/10, chính quyền địa phương nhận tin báo cháy xảy ra tại ngôi chùa này. Ngay sau đó, UBND xã Xuân Lũng thông báo và huy động lực lượng đến ứng cứu, đồng thời báo cáo UBND huyện Lâm Thao và các cơ quan chức năng của huyện. Song khi lực lượng cán bộ xã có mặt tại hiện trường ngọn lửa bốc cháy dữ dội. Trong khi chờ cứu hỏa tới, lực lượng chức năng địa phương đã sử dụng các phương tiện tại chỗ để xử lý đám cháy. Khoảng 10h30, lực lượng cứu hỏa có mặt tại hiện trường và thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, đến 11h30 cùng ngày ngọn lửa được dập tắt hoàn toàn.

Thống kê thiệt hại cho thấy, vụ cháy đã thiêu rụi tòa Tam Bảo; bệ đá hoa sen bị vỡ cánh hoa. Đồng thời, 27 pho tượng Phật bị thiêu rụi hoàn toàn cùng toàn bộ cơ sở vật chất trong chùa. Tổng thiệt hại ước tính khoảng 25 tỷ đồng.

b. "Ngai vua triều Nguyễn" bị phá hoại

Ngai vàng triều Nguyễn được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia tại Quyết định số 2382/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 2025. Ngai cao 101cm, rộng 72cm, dài 87cm; phần đế dài 118cm, rộng 90cm, cao 20cm. Phía trên ngai có bửu tán thếp vàng lộng lẫy. Tất cả đều được làm bằng gỗ sơn son thếp vàng. Đây là bảo vật quốc gia do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế quản lý và được bảo quản, trưng bày tại Điện Thái Hòa (Đại Nội Huế) để phục vụ người dân và du khách.

Vào lúc 11 giờ 55 phút ngày 24/05/2025, đối tượng Hồ Văn Phương Tâm, sinh ngày 10/02/1983; Hộ khẩu thường trú: Tổ 7, Khu vực 4, phường Hương Long, quận Phú Xuân, thành phố Huế mua vé vào thăm quan Đại nội Huế. Khi vào tham quan Điện Thái Hòa, đối tượng Hồ Văn Phương Tâm có biểu hiện không bình thường, nhân viên bảo vệ của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế là ông Đặng Quang Long và ông Đào Hoàng Vũ đang làm nhiệm vụ tại Điện Thái Hòa đã mời đối tượng ra khỏi khu vực Điện. Tuy nhiên, đối tượng sau đó đã quay lại, lẻn vào khu vực trưng bày Ngai vua triều Nguyễn, la hét và có hành vi xâm hại làm gãy phần tựa phía trước tay bên trái của hiện vật.

4. Chế tài pháp lý đối với hành vi phá hoại Bảo vật quốc gia

Theo khoản 8 Điều 3 Luật Di sản văn hóa năm 2024, Bảo vật quốc gia là những di vật, cổ vật có giá trị đặc biệt quý hiếm, tiêu biểu cho đất nước về lịch sử, văn hóa và khoa học.

Hành vi phá hoại bảo vật quốc gia không chỉ là sự xúc phạm đến giá trị tinh thần và bản sắc dân tộc mà còn là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, Điểm c Khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như sau: "Người nào gây thiệt hại đối với tài sản là bảo vật quốc gia thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm". Điều này đồng nghĩa với việc, bất kỳ cá nhân nào có hành vi phá hoại, làm hư hỏng bảo vật quốc gia đều có thể bị truy tố hình sự và chịu án tù từ 2 đến 7 năm, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm.

Không chỉ dừng lại ở trách nhiệm hình sự, người có hành vi phá hoại bảo vật quốc gia còn phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định tại Điều 584 và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, người gây thiệt hại có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại vật chất, bao gồm:
  • Chi phí khôi phục, tu sửa hiện vật;
  • Chi phí tổ chức bảo quản khẩn cấp, trưng bày tạm thời;
  • Các chi phí liên quan khác nhằm hạn chế tổn thất phát sinh từ hành vi vi phạm.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã có các quy định chặt chẽ nhằm bảo vệ các giá trị di sản đặc biệt của quốc gia. Đây là cơ sở quan trọng để răn đe, phòng ngừa các hành vi xâm phạm bảo vật quốc gia, đồng thời thể hiện sự nghiêm túc trong việc gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa dân tộc cho thế hệ mai sau.

Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian để đọc bài viết này. Hy vọng bạn đã có được những thông tin bổ ích. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm nhiều thông tin cũng như cơ hội việc làm tại AGS nhé.

Thông tin khác

Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

Nguồn: https://tapchicongthuong.vn/ban-ve-quy-dinh-cam-xuat-khau-di-vat--co-vat--bao-vat-quoc-gia-trong-luat-di-san-van-hoa-142522.htm
Next Post Previous Post