Vì sao tài sản mã hóa chỉ được chào bán, phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài?

Theo chương trình thí điểm kéo dài 5 năm, Việt Nam cho phép doanh nghiệp trong nước phát hành tài sản mã hóa dựa trên tài sản thực, ngoại trừ chứng khoán và tiền đồng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, các loại tài sản này chỉ được phép chào bán và phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài. Quy định này được đặt ra nhằm hạn chế rủi ro, bảo vệ nhà đầu tư trong nước, vốn còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm, đồng thời giúp cơ quan quản lý kiểm soát tốt hơn những biến động của thị trường mới mẻ này. Trong bài viết này, AGS sẽ giúp bạn hiểu rõ lý do của chính sách này, cũng như tác động đối với doanh nghiệp và thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam.

1. Bảo vệ nhà đầu tư, giảm thiểu rủi ro

Thời gian gần đây, thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam phát triển rất nhanh, đưa Việt Nam vào nhóm ba quốc gia dẫn đầu thế giới với quy mô ước tính hơn 220 tỷ USD. Tuy nhiên, lĩnh vực này nhiều năm nằm trong “vùng xám” pháp lý, tạo điều kiện cho hàng loạt mô hình lừa đảo nở rộ, từ huy động vốn đa cấp biến tướng, các sàn đầu tư không có thật cho đến những dự án “token hóa bất động sản” không tồn tại.

Theo Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an), chỉ từ đầu năm 2025 đến nay đã ghi nhận gần 1.500 vụ lừa đảo trực tuyến với tổng thiệt hại hơn 1.660 tỷ đồng; riêng các hoạt động liên quan đến giao dịch tiền ảo, tài sản mã hóa xuất hiện ở hơn 1.500 kênh và nhóm khác nhau. Trong bối cảnh đó, việc Chính phủ ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-CP đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong cơ cấu thị trường vốn, hướng đến việc xây dựng một thị trường tài sản mã hóa minh bạch và hợp pháp hơn. Theo nghị quyết, mọi hoạt động chào bán phải thông qua các tổ chức cung cấp dịch vụ do Bộ Tài chính cấp phép và chỉ dành cho nhà đầu tư nước ngoài.
Giải thích về chủ trương này, ông Tô Trần Hòa – Phó Trưởng ban Phát triển thị trường chứng khoán (UBCKNN) – cho biết đây là cách tiếp cận thận trọng nhằm bảo vệ nhà đầu tư trong nước trước những rủi ro tiềm ẩn. Mặc dù có 19-21 triệu tài khoản liên quan đến tài sản số, nhưng con số này không phản ánh chính xác lượng nhà đầu tư thực tế do nhiều người sở hữu nhiều tài khoản. Quan trọng hơn, mức độ hiểu biết của phần lớn nhà đầu tư Việt Nam còn hạn chế, trong khi thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo lớn như Antex, Ifan, Pincoin, Sky Mining, Coolcat hay Lion Group gây thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng.
Đại diện UBCKNN cho biết, ở giai đoạn đầu, việc chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vừa có tác dụng thu hút dòng vốn quốc tế, vừa tạo khoảng thời gian cần thiết để hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao hiểu biết của công chúng. Đồng thời, các cơ quan quản lý sẽ đẩy mạnh các chương trình đào tạo, truyền thông về tài chính và tài sản số để người dân nắm rõ quyền lợi, nghĩa vụ và rủi ro khi tham gia thị trường. “Sức hút của thị trường không đến từ việc mở cửa sớm, mà từ chất lượng sản phẩm, tính thanh khoản, mức độ minh bạch và an toàn của dịch vụ,” ông Hòa nhấn mạnh.

2. Dung hòa an toàn và đổi mới

TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV nhận định rằng, để nắm bắt cơ hội từ sự bùng nổ của tài sản số, Việt Nam cần ưu tiên đầu tư vào hạ tầng dữ liệu, hệ thống lưu trữ, năng lượng và an ninh mạng. Ông cho rằng cơ quan quản lý nên yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài sản số tách riêng tài khoản tiền và tài sản của khách hàng, đồng thời áp dụng cơ chế ký quỹ bắt buộc để có nguồn bồi thường khi xảy ra sự cố. Theo TS. Cấn Văn Lực, sự phát triển của thị trường tài sản số sẽ phụ thuộc vào khả năng cân bằng giữa an toàn và đổi mới. Nếu quá thận trọng, Việt Nam có thể đánh mất cơ hội trong làn sóng tài chính số toàn cầu; nhưng nếu mở cửa quá nhanh trong khi hạ tầng và pháp lý chưa hoàn thiện, rủi ro thiệt hại sẽ rất lớn. Ông đề xuất nên triển khai thí điểm có giới hạn, cho phép nhà đầu tư chuyên nghiệp trong nước tham gia từng bước, đồng thời sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tiền số do Ngân hàng Nhà nước phát hành. “Thị trường tài sản số là xu hướng không thể đảo ngược. Điều quan trọng là làm thế nào để quản lý và tận dụng nó một cách an toàn, hiệu quả và mang lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam” - TS. Lực nhấn mạnh.
TS. Nguyễn Trí Hiếu – Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển thị trường tài chính và bất động sản toàn cầu – đánh giá rằng Nghị quyết 05 lần đầu tiên đưa ra khung khái niệm rõ ràng về tài sản được mã hóa và tài sản số, tạo nền tảng pháp lý cho việc phát hành, vận hành sàn giao dịch và sự tham gia của nhà đầu tư. Tuy vậy, ông cảnh báo vẫn còn nhiều thách thức, đặc biệt liên quan đến tiêu chuẩn của tài sản cơ sở, phương thức quản lý rủi ro và cơ chế định giá.
Ông Phan Đức Trung – Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam – cũng cho biết trong các lĩnh vực đầu tư mới, đặc biệt là sản phẩm tài chính như tiền số hay phái sinh, yêu cầu phòng ngừa rủi ro và bảo vệ nhà đầu tư phải được đặt lên hàng đầu. Theo ông, Việt Nam cần phân loại nhà đầu tư theo năng lực tài chính và mức độ hiểu biết để áp dụng chính sách phù hợp, đồng thời các tổ chức tài chính phải tư vấn phân bổ danh mục hợp lý. Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các đơn vị trung gian và các sàn giao dịch chuyên nghiệp nhằm bảo đảm thị trường vận hành minh bạch và tiệm cận chuẩn quốc tế. Ông Trung kết luận rằng để phát triển thị trường tài chính nói chung và các kênh đầu tư mới nói riêng, Việt Nam phải đảm bảo sự cân bằng giữa bảo vệ nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường và phòng chống rửa tiền. Chỉ khi có một khung thể chế đầy đủ và nhất quán, quốc gia mới có thể xây dựng một hệ sinh thái đầu tư chuyên nghiệp và phát triển bền vững.

Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc bài viết này. Hi vọng bài viết có thể cung cấp cho bạn sẽ có những thông tin bổ ích. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm những thông tin bổ ích khác và cơ hội việc làm hấp dẫn tại AGS nữa nhé.

Thông tin khác

Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

Nguồn: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/vi-sao-tai-san-ma-hoa-chi-duoc-chao-ban-phat-hanh-cho-nha-dau-tu-nuoc-ngoai-188024-188024.html
Next Post Previous Post