Kế Toán Lợi Thế Thương Mại: Nguyên Tắc, Phương Pháp Và Thực Tiễn Tại Việt Nam

Lợi thế thương mại là một khái niệm quen thuộc nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về bản chất và cách xác định giá trị của nó trong doanh nghiệp. Đây không chỉ là con số được ghi trên báo cáo tài chính sau các thương vụ mua bán – sáp nhập, mà còn là thước đo thể hiện uy tín, thương hiệu, khách hàng trung thành và năng lực quản lý của doanh nghiệp. Việc nắm vững khái niệm và cách hạch toán lợi thế thương mại giúp nhà quản lý đánh giá chính xác giá trị thực của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những quyết định tài chính và đầu tư hiệu quả hơn.

KHÁI QUÁT VỀ LỢI THẾ THƯƠNG MẠI

Trên thế giới, “Lợi thế thương mại” (Goodwill) phát sinh từ việc mua, hợp nhất doanh nghiệp xuất hiện từ rất sớm. Trong quá trình phát triển của kế toán, đã có nhiều phương pháp hạch toán, xử lý lợi thế thương mại khác nhau. Từ chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 22 (1993), đến IAS 22 (1998), rồi đến IFRS 3 (2004) xem lợi thế thương mại (Goodwill) là phần chênh lệch giữa giá mua đã thanh toán cho việc mua doanh nghiệp trên giá trị hợp lý của tài sản thuần nhận được từ hoạt động mua doanh nghiệp đó. Trong đó, IAS đã đưa ra các phương pháp xử lý lợi thế thương mại rất rõ ràng và cụ thể ứng với từng giai đoạn phát triển.
Ở Việt Nam, khái niệm “Lợi thế thương mại” (LTTM) xuất hiện lần đầu trong Hệ thống kế toán doanh nghiệp được ban hành theo Quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995, sau đó lại được đề cập đến trong Quyết định 166/QĐ-BTC ngày 30/12/1999. Cụ thể như sau:Theo Quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995: Lợi thế thương mại là các khoản chi thêm ngoài giá thực tế của các tài sản cố định hữu hình bởi sự thuận lợi của vị trí thương mại, sự tín nhiệm đối với bạn hàng, danh tiếng của doanh nghiệp,…
Theo Quyết định 166/QĐ-BTC ngày 30/12/1999: Lợi thế thương mại là khoản chi cho phần chênh lệch doanh nghiệp phải trả thêm (chênh lệch phải trả thêm = giá mua – giá trị tài sản theo đánh giá thực tế) ngoài giá trị tài sản theo đánh giá thực tế khi doanh nghiệp đi mua, nhận sáp nhập, hợp nhất một doanh nghiệp khác. Lợi thế này được hình thành bởi ưu đãi về vị trí kinh doanh, về danh tiếng và uy tín với bạn hàng, về trình độ tay nghề của đội ngũ người lao động, về bộ máy điều hành tổ chức của doanh nghiệp đó,….
Đến năm 2001, Lợi thế thương mại phát sinh từ việc mua doanh nghiệp (DN) lại được đề cập trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 về “Tài sản cố định vô hình”. Cụ thể như sau:
LTTM là nguồn lực vô hình doanh nghiệp có được thông qua việc sáp nhập DN có tính chất mua lại được ghi nhận là LTTM vào ngày phát sinh nghiệp vụ mua.
LTTM phát sinh từ việc sáp nhập DN có tính chất mua lại được thể hiện bằng một khoản thanh toán do bên đi mua tài sản thực hiện để có thể thu được lợi nhuận trong tương lai.
Chi phí phát sinh để tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai nhưng không hình thành TSCĐ vô hình vì không đáp ứng được định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận trong chuẩn mực này, mà tạo ra LTTM từ nội bộ DN. LTTM được tạo ra từ nội bộ DN không được ghi nhận là tài sản vì nó không phải là nguồn lực có thể xác định được, không được đánh giá một cách đáng tin cậy và DN không kiểm soát được”.
Theo chuẩn mực này, các tài sản vô hình trong quá trình sáp nhập có tính chất mua lại nếu không thoả mãn định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận là TSCĐ vô hình sẽ trở thành lợi thế thương mại nhưng không quy định các ghi nhận và xử lý LTTM như thế nào.Đến năm 2002, Thông tư 55/2002/TT-BTC đề cập đến lợi thế thương mại là chênh lệch giữa giá mua và giá trị sổ sách của các tài sản đơn vị được mua.
Đến năm 2005, Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 11 (VAS-11) – “Hợp nhất kinh doanh” cũng đề cập đến LTTM như sau:LTTM là những lợi ích kinh tế trong tương lai phát sinh từ các Tài sản không xác định được và không ghi nhận được một cách riêng biệt.
Tại ngày mua bên mua sẽ ghi nhận LTTM phát sinh khi hợp nhất kinh doanh là tài sản; và xác định giá trị ban đầu cả LTTM theo giá gốc, là phần chênh lệch của giá phí hợp nhất so với phần sở hữu của bên mua trong giá trị hợp lý thuần của tài sản, nợ phải trả có thể xác định được và các khoản nợ tiềm tàng.
Theo chuẩn mực này, LTTM được phát sinh trong quá trình hợp nhất kinh doanh thể hiện khoản thanh toán của bên mua cho những lợi ích kinh tế thu được trong tương lai từ những tài sản không đủ tiêu chuẩn ghi nhận và không xác định được một cách riêng biệt.

PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN LỢI THẾ THƯƠNG MẠI HIỆN NAY

Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển sẽ có những phương pháp hạch toán khác nhau. Cụ thể như sau:Từ Quyết định 1141 đến Quyết định 166, khái niệm lợi thế thương mại phát sinh từ việc hợp nhất được khẳng định là vốn hóa thành tài sản vô hình và được tính khấu hao.
Đến năm 2001, lợi thế thương mại phát sinh từ việc mua doanh nghiệp lại được đề cập đến trong Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 04 về “Tài sản cố định vô hình”. Theo chuẩn mực này lợi thế thương mại phát sinh từ việc mua doanh nghiệp được hạch toán như là khoản chi phí trả trước dài hạn.
Theo Thông tư 55/2002/TT-BTC hướng dẫn kế toán đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đề cập việc ghi nhận Lợi thế thương mại phát sinh từ việc mua doanh nghiệp như là một chi phí trả trước dài hạn.
Theo thông tư 89/2002/TT-BTC: Lợi thế thương mại được đưa vào một nội dung trong TK 242 – Chi phí trả trước dài hạn.
Theo thông tư 21/2006/TT-BTC: Lợi thế thương mại được phân bổ dần vào chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mua trong thời gian tối đa không quá 10 năm.
Việc Lợi thế thương mại được nhắc đến nhiều đã khẳng định vị trí quan trọng của nó. Nhưng các quy định hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa phản ánh đầy đủ và chưa xử lý đúng mức đối với Lợi thế thương mại phát sinh từ việc mua doanh nghiệp.
Qua đó, cho thấy có sự khác biệt về cách xử lý Lợi thế thương mại giữa Việt Nam và Thế giới, vấn đề đặt ra cho chúng ta là nên chọn cách làm nào hợp lý nhất với điều kiện ở Việt Nam hiện nay.

Lợi thế thương mại âm (Negative Goodwill)

Thông tư 55/2002/TT-BTC đã đưa ra các hướng dẫn về phương pháp kế toán đối với lợi thế thương mại âm. Theo đó, lợi thế thương mại âm được xử lý tương tự IAS 22 (1993) theo phương pháp chuẩn:
Giá trị tương đương của các tài sản phi tiền tệ cần được ghi giảm tương ứng cho tới khi không còn chênh lệch.
Phần còn lại (nếu có) sẽ được ghi nhận như một khoản thu nhập chưa thực hiện và được phân bổ vào thu nhập trong thời gian không quá 20 năm (trừ khi có lý do xác đáng).
Trong chuẩn mực số 04 về “Tài sản cố định vô hình”, lợi thế thương mại âm có được đề cập đến nhưng không có quy định.
Tuy nhiên, cách xử lý Lợi thế thương mại như trên liệu có hợp lý với tình hình Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh thế giới hay không?. Vì cho đến nay, chuẩn mực kế toán quốc tế đã hai lần sửa đổi về cách xừ lý vấn đề này thể hiện ở IAS 22 (1998) và IFRS 3 (2004).
Lợi thế thương mại không chỉ là một con số trên báo cáo tài chính mà còn là thước đo phản ánh uy tín, vị thế và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp. Trong bối cảnh Việt Nam đang dần hội nhập với chuẩn mực kế toán quốc tế, việc hoàn thiện phương pháp ghi nhận và trình bày lợi thế thương mại là vô cùng cần thiết. Cách hạch toán minh bạch, nhất quán không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ quy định mà còn nâng cao độ tin cậy của báo cáo tài chính, tạo niềm tin với nhà đầu tư. Hiểu và áp dụng đúng lợi thế thương mại sẽ giúp doanh nghiệp thể hiện giá trị thật và có chiến lược phát triển bền vững hơn.
Công ty TNHH Kế toán và Kiểm toán AGS xin cảm ơn bạn đã dành thời gian theo dõi bài viết. Hy vọng những thông tin được chia sẻ sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về lợi thế thương mại và ứng dụng hiệu quả trong công việc thực tế.

Thông tin khác

Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

NGUỒN: TỔNG HỢP
Next Post Previous Post