Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Đặt vấn đề

Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong suốt quá trình tổ chức thi hành án dân sự, từ khi ra quyết định thi hành án, tổ chức cho các đương sự thỏa thuận việc thi hành án, thực hiện các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án cho đến khi kết thúc việc thi hành án. Trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có gần một nửa số điều, khoản quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự, được chia thành 11 nhóm quyền với 03 nhóm nghĩa vụ của người được thi hành án, 08 nhóm quyền với 04 nhóm nghĩa vụ của người phải thi hành án. Đối với quy định về thông báo thi hành án, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có 27 điều, khoản, chiếm gần 1/3 số điều, khoản quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự, trong đó, hầu hết quy định về quyền của đương sự về thông báo thi hành án.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 dành nhiều điều, khoản quy định về quyền của đương sự nhưng thực tiễn thi hành các quy định này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, làm ảnh hưởng không chỉ đến hiệu quả tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án mà còn đến việc bảo đảm thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của cá nhân, tổ chức liên quan.

1. Quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân

1.1. Nguyên tắc “cân bằng” về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong Hiến pháp và pháp luật dân sự

Việc quy định cân bằng, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức là yếu tố rất quan trọng, vừa là điều kiện bảo đảm, vừa là nguyên tắc cơ bản để xây dựng chế định pháp luật chặt chẽ, khả thi và ổn định. Điều này được thể hiện và quy định cụ thể tại Hiến pháp và một số đạo luật cơ bản.

Trước hết, Hiến pháp năm 2013, sửa đổi, bổ sung năm 2025 (Hiến pháp năm 2013) quy định các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, Điều 14, Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác, công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.

Tiếp đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 là đạo luật quan trọng, điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản của xã hội. Ở Việt Nam, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật, mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng; ở chiều ngược lại, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự (Điều 2, Điều 3).

Trong lĩnh vực tố tụng, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung các năm 2019, 2020, 2022, 2023, 2024, 2025) quy định đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng; đương sự có trách nhiệm sử dụng quyền của mình một cách thiện chí, không được lạm dụng để gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án, đương sự khác; trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả theo quy định của pháp luật.

Như vậy, từ quy định của các đạo luật cơ bản cho thấy, quyền của tổ chức, cá nhân sẽ được bảo đảm khi nghĩa vụ tương ứng của tổ chức, cá nhân có liên quan được thực hiện; ngược lại, khi tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nghĩa vụ theo quy định pháp luật sẽ là cơ sở để bảo đảm quyền tương ứng của tổ chức, cá nhân có liên quan.

1.2. Quy định pháp luật liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự về thông báo thi hành án

Đương sự theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự bao gồm tổ chức, cơ quan, cá nhân được hưởng quyền, lợi ích trong các bản án, quyết định được thi hành hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật quy định đương sự được quyền “rất rộng” về thông báo thi hành án, điều này đồng nghĩa với việc chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm “rất lớn” trong việc bảo đảm quyền của đương sự về thông báo thi hành án. Trong khi đó, pháp luật chỉ quy định đương sự có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có sự thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú.

Trong từng khâu, từng bước, từng thủ tục khi giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên phải thông báo cho đương sự, bảo đảm đủ nội dung, đúng yêu về cầu hình thức và trong thời hạn quy định.

- Về nội dung thông báo: theo quy định pháp luật hiện hành, đương sự được thông báo về các quyền được hưởng và nghĩa vụ phải thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án và theo quyết định thi hành án; thời gian, địa điểm, nội dung các buổi làm việc trong quá trình giải quyết việc thi hành án; kết quả xác minh sau 02 lần mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành; việc cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản thi hành án; kết quả thẩm định giá tài sản thi hành án; kết quả đấu giá tài sản thi hành án, kể cả trong trường hợp đấu giá không thành; việc giao tài sản, trả lại tiền, tài sản tạm giữ, việc nhận tiền thi hành án do người phải thi hành án là phạm nhân hoặc thân nhân của họ nộp khi đã hết thời hiệu thi hành án.

Đồng thời, đương sự cũng được thông báo, hướng dẫn để thực hiện các quyền liên quan phát sinh trong quá trình giải quyết việc thi hành án. Cụ thể, đương sự được thông báo về: quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ trong trường hợp tài sản, giấy tờ đó đang bị cơ quan thi hành án tạm giữ để thực hiện nhiệm vụ thi hành án; quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, quyền khởi kiện đối với tài sản thi hành án có tranh chấp; quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp giao dịch đó liên quan đến tài sản thi hành án và ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án.

- Về hình thức và thời hạn thông báo: về hình thức, pháp luật thi hành án dân sự quy định đương sự được nhận trực tiếp các văn bản liên quan đến việc thi hành án, gồm quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và các văn bản khác có liên quan, khi nhận quyết định thi hành án, đương sự được chấp hành viên giải thích trực tiếp, rõ ràng về quyền, nghĩa vụ cụ thể được ghi trong quyết định thi hành án; trường hợp không thể thông báo trực tiếp thì chấp hành viên mới tiếp tục thực hiện các hình thức thông báo khác như niêm yết công khai hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Về thời hạn thông báo, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định việc thông báo thi hành án phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.

2. Thực trạng thi hành pháp luật liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự về thông báo thi hành án

Pháp luật hiện hành quy định hình thức thông báo thi hành án chủ yếu được thực hiện theo phương thức trực tiếp và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra văn bản. Trong khi đó, để giải quyết việc thi hành án, pháp luật hiện hành quy định có 60 loại quyết định thi hành án và rất nhiều loại văn bản thi hành án khác cần được thông báo cho đương sự như giấy báo, giấy mời, giấy triệu tập và các thông báo trong quá trình tổ chức việc thi hành án như thông báo việc cưỡng chế thi hành án, thông báo về việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản, thông báo về việc bán tài sản, thông báo về việc giao tài sản, thông báo về việc nhận tiền, tài sản….

Từ thực tiễn quy định pháp luật trên đã phát sinh một số khó khăn, hạn chế như:

Thứ nhất, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng các điều về thông báo thi hành án (từ Điều 39 đến Điều 42) vẫn giữ nguyên từ năm 2008 đến nay. Các quy định này không còn phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc xóa bỏ các rào cản, cản trở sự phát triển, đơn giản hóa thủ tục hành chính được nêu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57-NQ/TW) và chủ trương nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, thi hành án, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí được nêu tại Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW).

Thứ hai, khối lượng công việc và áp lực ngày càng gia tăng. Số lượng việc phải thông báo theo quy định pháp luật trong từng khâu, từng bước của quá trình tổ chức thi hành án ngày càng nhiều, kèm theo nghĩa vụ xác minh địa chỉ đương sự trước khi tiến hành thông báo. Điều này đặt ra gánh nặng trách nhiệm rất lớn cho chấp hành viên. Khó khăn càng nhân lên trong bối cảnh số lượng việc và tiền thụ lý mới không ngừng tăng, nhiều vụ án có tính chất phức tạp, giá trị lớn. Thực tế, trung bình mỗi chấp hành viên phải tổ chức thi hành khoảng 233 việc với số tiền lên tới 127 tỷ đồng, thậm chí có địa bàn, con số này lên đến 400 - 500 việc/năm, vượt xa năng lực giải quyết thông thường.

Thứ ba, tình trạng đương sự không thực hiện nghĩa vụ về thông báo thay đổi địa chỉ, nơi cư trú hoặc không phối hợp tiếp nhận thông báo về thi hành án diễn ra khá phổ biến như cố tình trốn tránh, vắng mặt tại nơi cư trú khi chấp hành viên, công chức thi hành án đến để thực hiện việc thông báo thi hành án, giải quyết việc thi hành án. Điều này tạo ra “trách nhiệm không hợp lý” đối với chấp hành viên khi vẫn phải thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục thông báo thi hành án theo quy định. Trường hợp không thể thông báo trực tiếp, kể cả vì lý do đương sự cố tình không tiếp nhận thông báo hoặc không thực nghĩa vụ thông báo thay đổi địa chỉ, nơi cư trú để nhận thông báo thi hành án thì chấp hành viên phải thực hiện các phương thức thông báo thi hành án thay thế (như niêm yết công khai, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng) và chỉ sau khi không thể thông báo trực tiếp.

Thứ tư, sự quá tải trong công việc và trách nhiệm “quá nặng nề” đối với chấp hành viên là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến vi phạm quy định về thông báo thi hành án của chấp hành viên. Qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ ra một trong những dạng vi phạm phổ biến trong công tác thi hành án dân sự tại các địa phương là vi phạm về thông báo thi hành án như thông báo quá thời hạn quy định….

Để khắc phục ngay một số hạn chế, bất cập của pháp luật, kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đang trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, Chính phủ đã quy định thông báo về thi hành án theo hướng “mở” hơn để giảm bớt áp lực công việc cho chấp hành viên nhưng vẫn bảo đảm không trái với quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Theo đó, việc thông báo về thi hành án lần đầu vẫn được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, từ lần thông báo thứ hai trở đi, nếu người được thông báo đồng ý thì cơ quan thi hành án dân sự có thể thực hiện thông báo qua VNeID hoặc Trang thông tin điện tử của Cục Thi hành án dân sự (nay là Thi hành án dân sự) và Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thi hành án dân sự (nay là Cục Quản lý thi hành án dân sự) thuộc Bộ Tư pháp.

3. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án để bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự

Yêu cầu triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW, Nghị quyết số 57-NQ/TW của trung ương, các văn bản của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan trung ương triển khai các nghị quyết của trung ương và sự trông đợi của các cơ quan thi hành án dân sự trong việc giải quyết những khó khăn, bất cập, hạn chế từ thực tiễn trong lĩnh vực thi hành án dân sự đã đặt ra nhiệm vụ rà soát, sửa đổi tổng thể Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và đang được tích cực triển khai thực hiện. Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được xem xét, cho ý kiến, thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.

Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện một số quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án như sau:

Thứ nhất, việc thông báo thi hành án cho đương sự ở nước ngoài bên cạnh chịu sự điều chỉnh của Luật Thi hành án dân sự còn chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của Luật Tương trợ tư pháp liên quan đến tống đạt văn bản, tài liệu cho đương sự ở nước ngoài. Vì vậy, việc rà soát, đề xuất hoàn thiện các quy định liên quan đến thông báo thi hành án của Luật Thi hành án dân sự cần được thực hiện đồng thời với việc rà soát, đề xuất hoàn thiện các quy định liên quan của các Luật hiện hành để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Thứ hai, cần xác định rõ việc thực hiện nghĩa vụ thông báo kịp thời, chính xác địa chỉ cư trú, địa chỉ tiếp nhận thông báo của cơ quan thi hành án dân sự là một điều kiện cơ bản để bảo đảm quyền lợi của đương sự. Vì vậy, dự án Luật Thi hành án dân sự cần quy định rõ nghĩa vụ cung cấp thông tin về địa chỉ nhận thông báo thi hành án, gồm địa chỉ bưu chính, địa chỉ thư điện tử và các phương thức tiếp nhận thông báo khác; đồng thời, bổ sung quy định khi chấp hành viên đã thực hiện việc thông báo theo đúng địa chỉ đương sự đã cung cấp thì việc thông báo do chấp hành viên thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định cần được xác định là thông báo hợp lệ.

Thứ ba, để pháp luật thi hành án dân sự phù hợp với chủ trương của Đảng, nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW và tiếp tục hoàn thiện các quy định về hình thức thông báo thi hành án, cần sửa đổi quy định tại Điều 39 và các điều liên quan trong Luật Thi hành án dân sự theo hướng ghi nhận các hình thức thông báo thi hành án hợp pháp gồm thông báo trực tiếp, thông báo qua các nền tảng điện tử như thông báo qua hệ thống VNeID, trên Cổng thông tin điện tử về thi hành án, qua địa chỉ thư điện tử, niêm yết, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng…

Quy định các hình thức thông báo như vậy không chỉ triển khai thực hiện đúng các chủ trương của Đảng mà còn nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành án, nhất là những địa bàn lớn như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và những địa phương phải thụ lý, giải quyết các vụ việc thi hành án có số đương sự lớn hoặc đặc biệt lớn trong thời gian vừa qua. Qua đó, tăng cường vai trò, trách nhiệm và cơ chế để đương sự có thể chủ động thực hiện, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong thi hành án dân sự.

Việc quy định thông báo thi hành án trên các phương tiện điện tử cũng phù hợp với xu thế chung của nhiều nước trên thế giới. Tại Cộng hòa Séc, trên 90% tác nghiệp của thừa phát lại (yêu cầu, tống đạt, xác minh điều kiện thi hành án, đấu giá tài sản, trừ vào thu nhập…) được thực hiện bằng phương thức điện tử. Tại Cộng hòa Italia, toàn bộ các thông báo tống đạt, thông tin thủ tục, biên bản kê biên… có thể được tạo lập, lưu trữ và gửi, nhận trực tuyến; các luật sư, chủ nợ, bên liên quan đều có thể truy cập hồ sơ số hóa, nhận thông báo, theo dõi tiến trình thi hành án qua mạng.

Theo Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư, Bộ Công an đã cấp và kích hoạt hơn 62 triệu tài khoản định danh điện tử cho người dân, 292 triệu tài khoản định danh cho tổ chức điện tử trên ứng dụng VneID. Hiện, “cửa sổ” thông báo thi hành án đã được tích hợp trên hệ thống VNeID. Chính vì vậy, đây là cơ sở thực tiễn thuận lợi cho việc luật hóa quy định thông báo về thi hành án trên các phương tiện điện tử. Quy định này không những không tạo thêm bất kỳ “gánh nặng” nào cho đương sự mà còn góp phần bảo đảm tốt hơn quyền, nghĩa vụ của đương sự trong thi hành án dân sự.

Việc quy định bổ sung hình thức thông báo thi hành án qua VNeID và các hình thức điện tử khác đã góp phần giải quyết những khó khăn của chấp hành viên, công chức thi hành án khi thực hiện thông báo trực tiếp, nhất là đối với các vụ án có số đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đặc biệt lớn lên đến hơn 43.000 người như vụ Trương Mỹ Lan. Tuy nhiên, để giải quyết triệt để những khó khăn, bất cập trên, cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự về thông báo thi hành án.

Kết luận

Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi. Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước cũng quy định các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đã được pháp luật ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Nhà nước thông qua các quy định pháp luật để một mặt, yêu cầu các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đương sự; mặt khác, tạo ra cơ chế để đương sự có thể chủ động thực hiện, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Với những nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định cụ thể liên quan đến thông báo thi hành án trong Luật Thi hành án dân sự đã được phân tích, nghiên cứu, cung cấp thông tin, để các nhà làm luật có cơ sở xem xét, thông qua dự án Luật Thi hành án dân sự, đóng góp một phần vào xây dựng, hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới./.

Công ty AGS cảm ơn bạn đã dành thời gian để đọc bài viết này. Hy vọng bạn đã có được những thông tin bổ ích. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm nhiều thông tin cũng như cơ hội việc làm tại AGS nhé.

Thông tin khác

Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn

Nguồn: https://danchuphapluat.vn/hoan-thien-phap-luat-ve-thong-bao-thi-hanh-an-tu-goc-do-quyen-va-nghia-vu-cua-duong-su-8016.html
Next Post Previous Post