Lỗ hỏng pháp lý tiền mã hóa và các hệ quả
Mặc cho tiền mã hóa ngày càng thâm nhập sâu vào đời sống của người dân, sau thời gian dài Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể của pháp luật để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến tiền mã hóa. Bài viết dưới đây của Công ty AGS sẽ cung cấp các thông tin cần thiết về các vấn đề pháp lý của tiền mã hóa.
Tiền ảo và tiền mã hóa có phải là một?
Trước đây, dữ liệu nói chung hay tài sản ảo nói riêng thường được lưu trữ trong các hệ thống máy tính tập trung (centralized ledger). Đối với hình thức này, tất cả dữ liệu sẽ nằm đổ về một hệ thống trung tâm, do vậy dù có nhiều máy tính để lưu trữ (backup) thì dữ liệu vẫn sẽ nằm ở một sổ cái duy nhất, gọi là máy tính/sổ cái trung tâm. Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ứng dụng sổ cái phân tán (distributed ledger) mà điển hình là công nghệ chuỗi khối (công nghệ blockchain) thì hình thức lưu trữ dữ liệu thay đổi, cụ thể, đối với distributed ledger, không có một hệ thống nằm ở trung tâm, dữ liệu ở tất cả hệ thống đều liên thông với nhau, mỗi một nơi đều có một bản sổ cái copy giống hệt nhau. Do vậy, dữ liệu có thể được lưu trữ, quản lý bởi tất cả mọi người tham gia hệ thống, đảm bảo tính chính xác, minh bạch. Một số loại tài sản ảo được tạo lập trên cơ sở công nghệ này, thường được gọi là tài sản mã hóa (crypto assets) hay tiền mã hóa (crypto currencies). Như vậy, có thể thấy tài sản ảo, tiền ảo là một khái niệm rộng hơn, trong đó bao trùm khái niệm tài sản mã hóa, tiền mã hóa.
Tiền mã hóa là gì?
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng Lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính (FATF),[3] Ngân hàng Trung ương châu Âu,[4] Tổ chức quốc tế của các ủy ban chứng khoán (IOSC),[5] đều giống nhau ở việc, quan niệm tiền mã hóa hay còn được gọi là tiền thuật toán là một cơ sở dữ liệu thông tin được mã hóa tồn tại trong không gian kỹ thuật số, hoạt động thông qua công nghệ sổ cái phân tán – blockchain, sử dụng mật mã để bảo vệ hồ sơ giao dịch, kiểm tra và xác minh giao dịch một cách an toàn. Tiền mã hóa không tồn tại ở dạng vật chất (như tiền giấy, kim loại) và hiện tại không được phát hành và kiểm soát tập trung bởi cơ quan trung ương. Một số ví dụ của đồng tiền mã hóa có thể kể đến như Bitcoin, Ethereum, Binance Coin, Dogecoin, Near, Libra …[6]
Các loại tài sản mã hóa, tiền mã hóa có thể được tạo ra thông qua hai cách thông dụng “đào” (mining) hoặc thông qua “phát hành” (ICO - Initial Coin Offering). Đối với hình thức “đào”, người chơi đầu tiên tham gia vào mạng lưới giao dịch tiền mã hóa, sau đó tạo ra các khối mới có chứa bằng chứng công việc (proof of work) để được mạng lưới chấp nhận. Quá trình proof of work cần nhiều thời gian và đòi hỏi cấu hình máy tính rất cao để giải những thuật toán phức tạp. Trong khi đó, ICO là hình thức kêu gọi vốn bằng cách phát hành tiền theo công nghệ blockchain nhằm tài trợ cho các dự án trong lĩnh vực tiền mã hóa và các ngành công nghiệp blockchain. Theo đó, mỗi đợt ICO công ty sẽ chào bán một số lượng nhất định đồng tiền mã hóa cho nhà đầu tư dưới dạng phát hành token (mật mã) để đổi lấy các đồng tiền mã hóa khác đang được chấp nhận thanh toán rộng rãi trên thị trường. Thông thường, những đợt chào bán này có thời gian khoảng 01 (một) tháng cho đến khi đạt được số lượng đồng tiền mã hóa mục tiêu, thì sau đó đồng tiền mã hóa mới được phát hành sẽ được niêm yết lên các sàn giao dịch nơi người dùng có thể mua bán, trao đổi với nhau.
Hoạt động liên quan tiền mã hóa tại Việt Nam hiện nay
Có thể nói rằng chưa bao giờ hoạt động liên quan về tiền mã hóa tại Việt Nam lại sôi động như hiện tại. Trước hết, có thể kể đến hoạt động chuyển tiền ra nước ngoài. Theo quy định, để một người Việt Nam có thể chuyển tiền ra nước ngoài, thì có thể thông qua đơn vị chuyển tiền quốc tế (những đơn vị này hoạt động với quy mô trên toàn thế giới, có thể kể đến nhưu MoneyGram, Western Union…) hoặc chuyển tiền thông qua tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, đối với cả hai phương thức nói trên, người chuyển tiền hoặc người nhận tiền phải chịu các mức phí nhất định và cũng phải thuộc những trường hợp có mục đích nằm trong những trường hợp được cho phép chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài.[7] Thực tế hiện nay có nhiều trường hợp, người ở Việt Nam và người nhận tiền ở nước ngoài cùng mở tài khoản trên một sàn giao dịch, và hai người thực hiện trao đổi đồng tiền mã hóa với nhau mà không thông qua tài khoản sàn, kết quả là người ở nước ngoài có thể nhận được đồng tiền mã hóa (sau đó quy đổi ra tiền pháp định mà mình muốn) mà không cần phải chịu điều tra nguồn tiền và với chi phí thấp hơn.
Tình huống tiếp theo có liên quan đến việc thi hành các bản án về dân sự. Như chúng ta đều biết, bản án, quyết định được ban hành chỉ có thể được bảo đảm hiệu lực nếu như được đưa ra thi hành. Tuy nhiên, một trong những điều kiện tiên quyết để thi hành được bản án, quyết định thì người phải thi hành án phải có điều kiện thi hành án. Dựa trên kết quả xác minh điều kiện thi hành án, một trong những căn cứ để Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án là khi người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu.[8] Trong khi đó, tiền mã hóa là loại tài sản không gắn với thực thể trong thế giới thật, mà chỉ gắn với địa chỉ ví. Do vậy, người phải thi hành án hoàn toàn có thể thông qua việc đầu tư vào tiền mã hóa để trốn tránh việc thi hành án, dẫn tới việc thi hành án kéo dài, ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
Ngoài ra, gần đây trong cộng đồng crypto ở Việt Nam rộ lên các câu hỏi có liên quan về các đợt ICO của các dự án công nghệ, game. Hiện nay, do việc gây quỹ từ các đồng tiền ảo quá dễ dàng với số vốn huy động khá lớn và vì chưa được quản lý chặt chẽ, quy trình thành lập, đăng ký thành lập, cấp mã số thuế, trách nhiệm hoặc các hoạt động hay chế tài liên quan đến tiền ảo hiện nay pháp luật vẫn còn đang bỏ ngỏ, cùng với đó là việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến các hoạt động này cũng chưa có cơ chế để giải quyết một cách phù hợp, nên các dự án ICO thời gian qua chủ yếu là lừa đảo, điển hình có thể kể đến như iFan, AOC hay VNCOINS.
Một vụ việc khác có liên quan đến tiền mã hóa, chính là hình thức nhiều nhà đầu tư có thể cùng kết nối, mua chung một căn hộ, nền đất tiền tỉ khi chỉ cần vài triệu đồng bằng công nghệ blockchain. Cụ thể trong trường hợp này, một bất động sản có thể chia nhỏ thành nhiều phần, mỗi phần có giá trị nhất định. Khách hàng có thể mua một hoặc hoặc nhiều phần và khi đó họ có thể sở hữu một phần của bất động sản tùy vào năng lực tài chính của mình. Khi mua chung, các nhà đầu tư có thể bán lại “cổ phần” lại cho nhau nếu muốn chốt lời. Khi đã “chốt” mua, khách hàng sẽ được cấp một tài khoản để quản lý, theo dõi khoản đầu tư của mình. Nói tóm lại, hình thức này có thể coi là một dạng của mô hình mã hóa tài sản bằng công nghệ blockchain để mời gọi vốn kiểu mới. Cách làm là mã hóa giá trị nhà đất bằng công nghệ Blockchain và sử dụng mã Token (chữ ký số được mã hóa) để tiến hành giao dịch gọi vốn.
Cũng có thể kể đến những sự việc khác như vụ việc thu thuế đối với việc tham gia trao đổi tiền mã hóa ở Bến Tre diễn ra năm 2017,[9] hay vụ cướp tiền ảo vào năm 2021.[10] Trong vụ việc thu thuế ở Bến Tre, cơ quan thuế ban hành quyết định truy thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với khoản doanh số mua bán tiền ảo của nguyên đơn trong khi chưa làm rõ tiền mã hóa có phải là đối tượng chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế hay không. Đối với vụ cướp tiền ảo, còn có nhiều tranh luận về việc tiền ảo có phải là tài sản hay không. Bởi mặc dù hành vi của các đối tượng là nguy hiểm tới xã hội, tuy nhiên nhiều đối tượng vẫn chưa nhận tội và kêu oan bởi cáo trạng truy tố các bị can về tôi “cướp tài sản”, trong khi tiền ảo không được coi là tài sản theo quy định của Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015.
Một số khuyến nghị
Một là, các nhà lập pháp cần sớm đưa ra chính sách rõ ràng đối với tiền mã hóa và định nghĩa về tiền ảo nói chung tiền mã hóa nói riêng.
Trong trường hợp chúng ta thừa nhận “tiền mã hóa”, thiết nghĩ việc đầu tiên khi xây dựng khung pháp luật về tiền mã hóa đó chính là cần phải đưa ra một định nghĩa về tiền mã hóa để làm rõ được phạm vi, đối tượng tiền mã hóa được điều chỉnh theo pháp luật Việt Nam để làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp luật khác có liên quan.[11] Việc xây dựng khái niệm này có thể tham khảo từ các quốc gia trong khu vực, cũng như những tài liệu của các học giả trong và ngoài nước.
Hai là, xác định bản chất pháp lý của tiền mã hóa
Tác giả cho rằng, cần nghiên cứu, xây dựng để thống nhất tài sản mã hóa, tiền mã hóa thuộc phạm trù tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 (Điều 105). Bởi thực tế việc chấp nhận tiền mã hóa là phương tiện thanh toán nếu có sẽ ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ ở Việt Nam, đặt ra những thách thức nhất định đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Ngoài ra, theo Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 thì trong lương lai gần Việt Nam sẽ có đồng tiền kỹ thuật số pháp định thay thế dần đồng tiền giấy truyền thống.[12] Do vậy, thiết nghĩ trước mắt cần phải xem xét tính ổn định và những vấn đề phát sinh của đồng tiền kỹ thuật số của Ngân hàng trung ương trước khi tính đến việc cân nhắc, xem xét tiền mã hóa có là một phương tiện thanh toán hay không.
Ba là, về mặt nguyên tắc, không ai có thể xác định được danh tính của người sở hữu và những người tham gia các giao dịch về tiền mã hóa nếu bản thân họ không tự lộ diện. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt các chủ thể xác lập các giao dịch liên quan đến tiền mã hóa mới phải công khai danh tính. Điều này có thể đến từ các quy định của pháp luật các quốc gia tạo ra và công nhận tiền mã hóa hoặc các quốc gia thừa nhận và quy định cụ thể về các giao dịch tiền mã hóa. Ví dụ một số đồng tiền mã hóa được tạo ra đòi hỏi chủ thể phải công khai danh tính khi sở hữu và sử dụng hoặc một số quốc gia (ví dụ Nhật Bản) đòi hỏi việc giao dịch các đồng tiền mã hóa phải được thực hiện qua sàn giao dịch có đăng ký và chủ thể giao dịch phải công khai danh tính. Từ đó việc quy định để có thể định danh được chủ sở hữu của đồng tiền mã hóa, cho phép thành lập và kiểm soát các sàn giao dịch tiền mã hóa thì mới có thể giải quyết tận gốc những vấn đề có liên quan về chuyển tiền quốc tế, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Bốn là, như đã phân tích ở trên, việc không chính thức công nhận hoặc ngăn cấm đối với tiền mã hóa, dẫn đến Việt Nam không thể tiến hành thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh và giao dịch tiền mã hóa. Điều này làm giảm thiểu một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Thiết nghĩ, trước khi thừa nhận đồng tiền mã hóa nói chung, tiền ảo nói riêng, các nhà lập pháp cần chỉnh sửa, ban hành, bổ sung quy định phù hợp để đưa tiền mã hóa và các hoạt động sinh lời liên quan đến tiền mã hóa trở thành đối tượng chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế.
Năm là, để đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý cho nhà đầu tư, giảm các tác động tiêu cực tới xã hội, thiết nghĩ các nhà làm luật cần nghiên cứu, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét ban hành văn bản điều chỉnh về hoạt động huy động vốn qua phát hành tài sản mã hóa (ICO) và quản lý sàn giao dịch tài sản mã hóa là chứng khoán theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế và yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể, cần hoàn thiện các cơ chế để loại hình huy động vốn này phù hợp với đà phát triển của công nghệ và các loại hình đầu tư gắn liền với thị trường chứng khoán, đồng thời đề phòng được nguy cơ lừa đảo theo hình thức đa cấp, nguy cơ tham nhũng, rửa tiền theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, Luật Phòng chống rửa tiền năm 2012, và các quy định pháp luật có liên quan./.
Thông tin khác
Thông tin tuyển dụng và hướng dẫn
Nguồn: https://hpu.vn/thong-tin-khoa-hoc/lo-hong-phap-ly-tien-ma-hoa-va-cac-he-qua.html
1. Ths. Nguyễn Nhật Thanh, Nhận diện bản chất pháp lý của nền tiền mã hóa, https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=238.
2. Trần Thị Xuân Anh, Thực trạng và xu hướng phát triển tiền mã hóa tại Việt Nam – Một số khuyến nghị chính sách, Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020), Tr 31-49.
3. Trần Văn Biên, Nguyễn Minh Oanh, Tiền ảo và một số vấn đề pháp lý đặt ra ở Việt nam hiện nay, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tien-ao-va-mot-so-van-de-phap-ly-114.
4. Phan Chí Hiếu, Nguyễn Thanh Tú, Một số vấn đề pháp lý về tài sản mã hóa, tiền mã hóa, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, 2019.
5. Lê Hồng Thái, Nhận diện tiền mã hóa, pháp luật Việt Nam về tiền mã hóa, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 08 (432), tháng 4/2021.
6. Trần Thị Thu Hằng, Hoàn thiện khung pháp luật về tiền ảo tại Việt Nam, Tạp chí Pháp luật và Kinh tế, số 6 (351) – 2021.

.png)
